20 năm Ngày mất của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (27.4.1998 – 27.4.2018)
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - nhà lãnh đạo gần dân, tin dân, vì dân
Đồng chí Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), sinh ngày 1.7.1915 tại Hà Nội; quê gốc làng Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Xuất thân trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân mất nước, bị nô lệ, năm 1929, khi mới 14 tuổi, đồng chí đã tham gia hoạt động cách mạng, tiếp đó trải qua nhiều cương vị lãnh đạo ở nhiều địa phương, cơ quan Trung ương.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ các đại biểu dự Đại hội Đảng lần thứ VI khai mạc ngày 15.12.1986, tại Hà Nội. (Ảnh: TTXVN).
Dù ở đâu, làm việc gì, đồng chí cũng đem hết trí tuệ, sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân. Đồng chí là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt trong thực hành và phát triển phong cách lãnh đạo gần dân, tin dân, vì dân của Bác Hồ.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, kể từ khi bắt đầu có những hoạt động yêu nước đầu tiên (năm 1929) cho đến khi giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng (năm 1986), đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn thấm nhuần và quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dân là gốc”, “dân làm gốc”; xác định nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng. Phát biểu tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII (tháng 6-1987), đồng chí nhấn mạnh: “Không thể không nhận thấy rằng, cơ sở chủ yếu và nguồn gốc sâu xa tạo nên sức mạnh của chế độ chúng ta, nhân tố cơ bản bảo đảm giữ gìn và phát huy thành quả cách mạng chính là vai trò của quần chúng lao động. Bởi lẽ, cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của bản thân quần chúng. Chân lý đó hoàn toàn sáng rõ và được chứng minh đầy đủ trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng nước ta”.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Say mê với chiến thắng, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên sinh ra chủ quan, tự mãn; cùng với nhận thức chưa đúng, mang tư duy, cung cách quản lý thời chiến áp dụng vào quản lý xã hội, quản lý kinh tế trong thời bình… làm cho đất nước lâm vào trì trệ, khó khăn. Yêu cầu bức thiết đặt ra trong thời kỳ đó là phải khẩn trương đổi mới toàn diện, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, là dấu mốc quan trọng, mở đầu cho công cuộc đổi mới đất nước.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhưng đó cũng chính là đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội, trong đó, người dân là hạt nhân, là chủ thể. Chính nhân dân là những “kiến trúc sư” giúp Đảng có sự đột phá về tư duy đổi mới từ Đại hội VI của Đảng. Chính vì vậy, khi trả lời cho câu hỏi: “Tác giả” của đổi mới là ai?”, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói: “Tôi đã nhiều lần nói rằng, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng sở dĩ được hoàn thiện như dưới hình thức hiện nay, chính vì là tác phẩm của toàn Đảng và toàn dân”[1].
Đồng chí Nguyễn Văn Linh rất tâm đắc những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dễ mười lần không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong” và “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[2]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ “… Nơi nào và lúc nào không tạo ra được phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng thì nơi đó và lúc đó công việc không tiến lên được, ngược lại tiêu cực phát sinh”[3].
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn hòa mình với nhân dân, lắng nghe, thấu hiểu và làm mọi việc vì dân, tất cả nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân.
Theo đồng chí Nguyễn Văn Linh, “dân là gốc”, “dân làm gốc” phải được thống nhất cả từ trong suy nghĩ đến hành động, từ lời nói đến việc làm, từ lý luận đến thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo phải luôn lắng nghe, thấu hiểu xem dân muốn gì để phục vụ dân cho đúng, cho sát. Người cán bộ lãnh đạo, theo đồng chí: “Phải nghe thường xuyên, chứ đừng đợi kỳ họp theo lịch; nghe từ cửa miệng nông dân từ xã, ấp, thậm chí tại nơi xóm vắng, nghe từ những xóm thợ cần lao, từ người công chức, viên chức, chiến sĩ thấp nhất, nghe qua đại diện các cán bộ đoàn thể, các đồng chí về hưu hằng ngày gần gũi, tâm sự với nhân dân. Phải luôn luôn đặt ra câu hỏi vì sao quần chúng chưa nói hết, vì sao quần chúng không dám nói, vì sao quần chúng nói không cụ thể, không chính xác. Nghe, nhưng lại phải phân tích, chọn lọc, xem xét đâu là vấn đề cần giải quyết trước, đâu là vấn đề giải quyết sau, và rồi lại phải xin ý kiến dân cách giải quyết”[4]. Đồng chí Nguyễn Văn Linh phê phán nghiêm khắc một bộ phận cán bộ, đảng viên làm việc không thiết thực, không xuất phát từ điều kiện thực tiễn, làm việc theo kiểu “quan cách mạng”, ra quyết định theo kiểu “một túi áo báo cáo, một túi quần chỉ thị”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ. Đó là những biểu hiện của bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, xa rời dân chúng.
Trong quá trình công tác, đồng chí Nguyễn Văn Linh dành nhiều thời gian về các địa phương, cơ sở, đến thăm công nhân hầm lò, công trường, nông trường, quân khu, đơn vị bộ đội, gia đình cách mạng, thương binh, liệt sĩ… ở nhiều địa phương trong cả nước. Trên mọi cương vị công tác, đồng chí luôn gần gũi với nhân dân, hòa mình vào đời sống của đồng bào, đồng chí để xem xét kỹ tình hình; lắng nghe ý kiến của nhân dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Sau này, trên cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tuy sức khỏe giảm sút nhưng đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn thực hiện nhiều chuyến đi thực tế, về cơ sở để tư vấn, giúp các đồng chí lãnh đạo tháo gỡ khó khăn cho nhân dân. Từ những chuyến đi khảo sát thực tiễn, những ý tưởng mới, giải pháp mới, sát thực tiễn được đồng chí đề xuất với Đảng, Nhà nước trong hoạch định các chủ trương, chính sách, nhằm ổn định nhanh chóng tình hình kinh tế-xã hội và phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt nguyên tắc nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống, đồng chí Nguyễn Văn Linh đặc biệt quan tâm đấu tranh loại trừ những căn bệnh quan liêu, tham nhũng mà đồng chí coi là những “mầm bệnh”, “ung nhọt” trong “cơ thể” Đảng. Đặc biệt, tuy bộn bề công việc, đồng chí vẫn tranh thủ viết bài cho chuyên mục "Những việc cần làm ngay", ký bút danh N.V.L, đăng nhiều số trên Báo Nhân Dân từ ngày 25.5.1987 đến 28.9.1990. Các bài viết của đồng chí đều ngắn gọn, phê phán những hiện tượng tiêu cực, gây phiền hà cho nhân dân; khơi dậy tinh thần đấu tranh chống tiêu cực của các tầng lớp nhân dân, góp phần đưa công việc đổi mới đến thắng lợi. Các bài viết “Những việc cần làm ngay” chứa đựng tinh thần “hãy gần dân hơn nữa, hãy nắm bắt thực tiễn một cách sinh động hơn, bớt đi cái quan liêu, hành chính, xơ cứng và chung chung để làm cho dân bớt khổ hơn và tin tưởng hơn ở người cán bộ, đảng viên, tin ở Đảng”[5] đã tạo luồng sinh khí mới trong xã hội, được cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ủng hộ, hưởng ứng nhiệt tình. Đọc lại những bài viết đó, chúng ta càng thấy rõ cái tâm, cái tầm của đồng chí Nguyễn Văn Linh-một nhà lãnh đạo luôn gần dân, tin dân, vì dân. “Những việc cần làm ngay” hay “Nói và làm” thể hiện phẩm chất cao đẹp, sự cao thượng, đạo đức sáng trong của một người cộng sản kiên trung, mẫu mực, hết lòng vì sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh là hiện thân và tấm gương sáng về đạo đức trong sáng, nói đi đôi với làm. Dù ở cương vị, hoàn cảnh nào, đồng chí vẫn giữ nếp sống giản dị, tác phong sâu sát cơ sở. Trong công việc và cuộc sống hằng ngày, đồng chí luôn thực hành chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính; đấu tranh chống lãng phí, phô trương, hình thức…
Gần dân, tin dân và vì dân trở thành phương châm, nguyên tắc và phong cách lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong suốt quá trình hoạt động cách mạng. Chính điều đó càng làm sáng đẹp phẩm chất của người cộng sản kiên trung, mẫu mực, là tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, do đồng chí Lê Khả Phiêu đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Văn Linh, ngày 29.4.1998, khẳng định: “Từ buổi đầu tiên tham gia cách mạng đến khi vĩnh biệt chúng ta, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã giữ trọn danh hiệu cao quý của người đảng viên cộng sản, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hy sinh cao cả vì lý tưởng cao đẹp của Đảng. Đồng chí đã để lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta một tấm gương sáng về phẩm chất của người cộng sản “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, sống trung thực thẳng thắn, chan hòa, gần gũi với mọi người, giản dị và cần, kiệm, ghét thói phô trương, hình thức, luôn gắn bó với thực tiễn đất nước, đồng cam với đồng bào, chiến sĩ”.
----------------------
[1] Nguyễn Văn Linh: Mãi mãi đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Sđd, tr.51.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H., 2011, tập 5, tr.326
[3] Nguyễn Văn Linh: Mãi mãi đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Sđd, tr.50-51.
[4] Nguyễn Văn Linh: Mãi mãi đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Sđd, tr.201-202.
[5] Lê Hồng Liêm: Chú Mười và những nghĩa tình để lại. In trong tập Nguyễn Văn Linh - hành trình cùng lịch sử, Sđd, tr. 397.
TS NGUYỄN XUÂN TRUNG
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Theo QĐND