Giải bài toán xây dựng, quản lý công trình cấp nước tập trung: Ðẩy mạnh xã hội hóa
Toàn tỉnh có 136 công trình cấp nước tập trung, tổng công suất thiết kế 44.920 m3/ngày đêm. Tuy nhiên, việc quản lý, vận hành các công trình còn nhiều bất cập, một số công trình hoạt động không hiệu quả.
Lắp đặt đường ống dẫn nước từ nhà máy đến các hộ dân ở huyện Hoài Nhơn.
Nhiều bất cập
Thời gian qua, công tác đầu tư xây dựng mới công trình cấp nước tập trung (CTCNTT) vùng nông thôn được tỉnh quan tâm. Các công trình cấp nước liên xã, liên huyện có công suất thiết kế khá lớn, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân. Đến nay, tỉ lệ dân cư được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 97,1%, trong đó, có 62% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn 02 của Bộ Y tế.
Tuy nhiên, phần lớn các CTCNTT được bàn giao cho chính quyền địa phương, các HTX, DN, các đơn vị khác quản lý, khai thác, đã nảy sinh nhiều bất cập. Nguyên nhân một phần do nhiều công trình đã xuống cấp; năng lực quản lý, vận hành các công trình này chưa đáp ứng yêu cầu.
Ông Lê Văn Đẩu, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thạnh, cho hay: “Trên địa bàn huyện hiện có 2 CTCNTT với công suất trên 5.000 m3/ngày đêm, do Công ty CP Tổng hợp Vĩnh Thạnh quản lý, cung cấp nước sạch cho người dân ở thị trấn Vĩnh Thạnh và các xã Vĩnh Quang, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hảo… Tuy nhiên, do đường ống dẫn nước quá xa, lại bị ngoại lực tác động nên thường xuyên hư hỏng. Bên cạnh đó, giá nước thu thấp, việc thu không đủ chi cho sửa chữa, nâng cấp hệ thống nên gặp rất nhiều khó khăn”.
Theo ông Nguyễn Văn Tánh, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT) tỉnh, thì việc quản lý các CTCNTT gặp nhiều khó khăn do biến đổi khí hậu và do con người tác động, làm cạn kiệt nguồn nước mạch vào mùa khô; đường ống dẫn nước đến địa bàn dân cư thường bị hư hỏng do bão lũ; nhận thức của người dân về bảo vệ tài nguyên nước còn hạn chế… “Nhưng trở ngại lớn nhất của việc xây dựng các CTCNTT là thiếu vốn bởi không còn nguồn vốn hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia NS&VSMTNT”, ông Tánh nhìn nhận.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Hữu Vui, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, phân tích: “Nhu cầu nước sạch của người dân rất lớn, tuy nhiên, chương trình NS&VSMTNT hiện chỉ là một hợp phần nhỏ trong chương trình xây dựng nông thôn mới; đồng nghĩa với nguồn lực đầu tư cho lĩnh lực nước sạch sẽ giảm. Nhu cầu kinh phí đầu tư cho nước sạch nông thôn tỉnh ta rất lớn, ước tính trên 850 tỉ đồng, trong khi ngân sách tỉnh hạn hẹp không đủ đáp ứng là khó khăn lớn nhất”.
Đẩy mạnh xã hội hóa
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu của tỉnh đề ra đến năm 2020, tỉ lệ người dân sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đạt 99%, trong đó có 82% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn 02 của Bộ Y tế, ông Nguyễn Văn Tánh cho biết: “Trung tâm NS&VSMTNT đã tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng hoạt động của các CTCNTT để đề xuất mô hình quản lý có hiệu quả. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về sử dụng tài nguyên nước; tập huấn cho cán bộ, công nhân về công tác quản lý, vận hành các CTCNTT”.
Sở NN&PTNT cũng đã phối hợp các sở, ngành xây dựng dự án nâng cấp, mở rộng các CTCNTT báo cáo UBND tỉnh. Đồng thời, xây dựng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích, mời gọi các DN tham gia đầu tư phát triển hạ tầng, nâng cấp các CTCNTT nhằm giảm bớt áp lực chi tiêu ngân sách địa phương. Sở cũng tập trung rà soát, đánh giá, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cấp nước sạch nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 - 2020, định hướng đến năm 2030.
Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Hữu Vui cho biết thêm: “Giải pháp hữu hiệu là đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực cấp nước sạch. Đến nay, dự thảo về cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào chương trình nước sạch theo hình thức đối tác công tư đã được xây dựng và trình UBND tỉnh. Về lâu dài, xã hội hóa lĩnh vực nước sạch được triển khai thực hiện sẽ tăng hiệu quả sử dụng các CTCNTT, nâng cao chất lượng nước, đảm bảo cấp nước an toàn cho người dân sử dụng”.
NGỌC NHUẬN