Tuổi thanh xuân dành cho Tổ quốc
* Bút ký của ĐÀO TRUNG VIỆT
Ai đã từng cầm súng, tham chiến bảo vệ Tổ quốc chắc chắn sẽ không thể nào quên những năm tháng rất đỗi vinh quang ấy. Mỗi khi kỷ niệm ùa về, trong tôi - một trong những người lính như vậy - lại rưng rưng tự hào, bởi tôi có thể thẳng lưng mà nói - Tôi đã dành tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc.
***
Ngày 9.9.1982, khi tròn 18 tuổi, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tôi lên đường tòng quân nhập ngũ. Sau hơn 3 tháng huấn luyện tại Sư đoàn 860 Quân khu 5, tôi nhận lệnh sang chiến trường Đông Bắc Campuchia thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Đoàn xe chở quân phải mất 2 ngày đêm băng rừng, trèo đèo, lên phà, qua sông mới đến nơi.
Vận tải quân nhu, yếu phẩm ra chiến trường. Tranh: NGUYỄN ĐỨC DỤ
Sáng sớm 22.12.1982, tại bãi đất trống ở Cầu Cháy thuộc huyện Choam Khsant, tỉnh Preah Vihear (phiên âm tiếng Việt là Chôm - khơ - san, Prết Vi-hia), nhiều đơn vị thuộc Sư đoàn 307 - mặt trận tiền phương 579 (Quân khu 5) đã đợi sẵn để nhận quân. Tôi nhận lệnh về Ban quân khí Sư đoàn 307 đóng tại làng Xa Em. Làng bỏ hoang chỉ còn sót lại lác đác vài loài cây ăn quả lâu năm và nằm lọt thỏm giữa rừng cây cổ thụ bạt ngàn, xa xăm tít tắp...
Mặc dù biết mình được về sư đoàn bộ là điều may mắn nhưng thú thật trong thâm tâm tôi vẫn thấy bất an. Nhất là khi nhìn thấy các anh lính cũ ở đơn vị (Đại đội bảo vệ kho quân khí) ai nấy đều tím tái nước da, môi thâm đen, đôi mắt có quầng. Trong số đó không ít người còn mắc bệnh ghẻ lở, hắc lào mà đám lính quen gọi là lính-lác. Là thanh niên lớn lên ở nông thôn nhưng đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy các căn nhà tiểu đội toàn vách đất, mái lợp cỏ tranh với dàn cột kèo làm từ gỗ rừng ở bốn phía doanh trại.
Ngày đầu tiên về đơn vị mới đúng vào dịp kỷ niệm 38 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22.12.1944 - 22.12.1982) nên tôi được dự liên hoan chung vui cùng anh em trong đơn vị. Rượu thô được vắt ra từ gạo ủ men uống lai rai cùng thịt heo quay do đơn vị tổ chức nuôi để dành lúc lễ, tết trong năm.
Ở doanh trại, nước giếng đào là để nấu ăn, uống. Còn tắm giặt thì phải xuống suối. Tân binh luôn được các cựu binh căn dặn rất nhiều lần, cẩn thận chứ nếu không khéo sẽ trượt chân vì đá hầm, đá bậc... Nhưng có lẽ điều tôi lo nhất là thỉnh thoảng đơn vị lại bị tập kích bất kể ngày, đêm. Khi ấy, những loạt đạn pháo tầm xa từ các cứ điểm của tàn quân Pol Pot-Ieng Sary thỉnh thoảng lại hú trên trời. Những lúc như vậy, cả đại đội kho quân khí chúng tôi khẩn cấp báo động và nhanh chóng cầm súng chạy xuống hầm trú ẩn theo từng tiểu đội. Đợi đến khi nào không còn nghe tiếng hú của pháo tầm xa mới trở lên. Do bốn bề rừng cây trống vắng nên ban đêm các chiến sĩ bảo vệ kho đạn chúng tôi bảo nhau không nên ngồi ở vọng gác mà tìm những gốc cây thích hợp để có thể dễ dàng quan sát và đề phòng kẻ địch tập kích.
Chúng tôi không trực tiếp tham gia chiến đấu, nhưng luôn nằm trong tầm pháo kích, là điểm tấn công thường xuyên của kẻ thù bởi kho quân khí, kho đạn là mục tiêu lớn của chúng. Preah Vihear thuộc vùng sâu vùng xa, nơi biên giới của Campuchia nên sốt rét rừng luôn lăm le tấn công cánh lính chúng tôi. Trước lạ, sau quen, dần dà ai nấy đều gần gũi, cảm thông, chia sẻ cũng như giúp đỡ và động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Sáng Chủ nhật hàng tuần có một chuyến trực thăng chuyển thư từ, bưu phẩm từ Việt Nam sang chiến trường Đông Bắc Campuchia. Cũng như các đơn vị trực thuộc sư đoàn bộ, đại đội kho quân khí chúng tôi cử người lên quân bưu sư đoàn chờ nhận thư từ, bưu phẩm. Những lúc ấy, anh em chiến sĩ chúng tôi rất háo hức trông chờ được đọc những cánh thư của người thân, bạn bè hay món quà nào đó được gửi đến từ hậu phương. Tuần nào không có thư, lính chúng tôi đều thấy thiếu vắng, để khuây khỏa ai cũng lục ba lô lấy thư cũ ra đọc. Đồng đội tôi có những người đọc thuộc rất nhiều lá thư nhà vì thế.
Chiến trường tất nhiên không thể có điện. Tất cả các kỳ sinh hoạt đơn vị, giao ban tiểu đội đều diễn ra dưới ánh đèn dầu leo lét. Nhưng có một ngoại lệ. Nếu không có nhiệm vụ đột xuất, vào tối thứ Bảy hàng tuần, ban tuyên huấn sư đoàn bộ sẽ tổ chức chiếu phim phục vụ cán bộ, chiến sĩ đóng quân quanh sư đoàn. Để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, ngoài lực lượng được phân công túc trực bảo vệ kho tàng và doanh trại, khi xem phim lính ta vẫn mang theo súng trên vai để sẵn sàng đối phó với mọi tình huống bất ngờ.
Lãnh đạo sư đoàn chọn bãi cỏ tranh rộng rãi ở gần và cho công binh cải tạo, san ủi để làm nơi chiếu phim. Điều may mắn là những năm tháng ấy, dù ít ỏi nhưng những tác phẩm điện ảnh hàng đầu đều đến với lính chúng tôi. Điều đó tạo ấn tượng đặc biệt đến nỗi, tận bây giờ tôi vẫn có cảm giác như mới vừa xem “Ván bài lật ngửa”, “Bài ca không quên” vào hôm qua thôi.
Ở chiến trường Đông Bắc Campuchia, chúng tôi có may mắn là có đủ gạo ăn do có thêm phần của LHQ viện trợ. Nhưng về thực phẩm thì do điều kiện chiến trường khắc nghiệt, thung thổ Campuchia xa lạ, tình trạng thiếu thực phẩm rau xanh không thể tránh khỏi. Bởi tiêu chuẩn của mỗi cán bộ, chiến sĩ chỉ được hai lạng thịt hộp mỗi tuần nên tăng gia sản xuất để cải thiện bữa ăn hằng ngày luôn được chú trọng và tăng cường. Tranh thủ những lúc nghỉ ngơi chúng tôi lại cùng nhau vỡ đất trồng rau xanh, hái thêm rau rừng, bắt cá dưới suối... để cải thiện bữa ăn.
Chiến trường Đông Bắc Campuchia có hai mùa rõ rệt đó là mùa khô và mùa mưa. Cả hai mùa đều có nét khốc liệt riêng và đều hoàn toàn trái ngược với khí hậu miền Trung Việt Nam. Những năm ấy, Sư đoàn 307 thường chọn thời điểm giữa mùa khô để mở chiến dịch tấn công, truy quét tàn quân Khmer Đỏ ẩn náu trên những vùng đồi cao, giáp giới Thái Lan và thuộc khu vực đền Preah Vihear.
Ai từng là lính ở chiến trường K đều biết đến trận Preah Vihear mà một số người vẫn gọi là trận đánh chiếm căn cứ 547. Cao điểm 547 nằm trên dãy Dangreak (phiên âm tiếng Việt là Đăng Rếch, nghĩa là chiếc đòn gánh). Dãy núi hiểm trở này dài khoảng 40km, nằm sát biên giới Thái Lan. Đứng ở chân núi nhìn lên sẽ thấy vách đá như một bức tường thành dựng đứng, vững chắc, án ngữ một vùng rộng lớn. Ở đây, về mùa khô chỉ có thể tìm thấy nước ở một số vùng tại chân núi, sâu về phía nội địa Campuchia là những cánh rừng khộp. Đặc trưng ở vùng rừng khộp là ngay khi vừa hết mùa mưa, sông suối lập tức cạn khô, nhiều nơi phải tìm cả ngày trời mới thấy nước đọng.
Sau 4 lần đánh không thành công, tháng 4.1984, Quân khu 5 quyết định đánh một trận hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và phải giành chiến thắng. Để phục vụ tiền phương, cánh lính bảo vệ kho đạn chúng tôi tập trung, khẩn trương và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu trong mọi tình huống, mọi điều kiện bất kể ngày, đêm. Bất cứ lúc nào cũng có sẵn xe tải trong tư thế sẵn sàng đưa vũ khí, đạn dược phục vụ chiến trường.Trận này quân ta thắng lớn. Nhưng hy sinh cũng không hề nhỏ. Nhưng điểm quan trọng nhất, đây là trận thắng có tính chất quyết định, tạo bước ngoặt trên chiến trường Campuchia, sau trận này quân Khmer Đỏ suy yếu hẳn.
Nhắc lại trận Preah Vihear, tôi lại nhớ đồng đội đã hy sinh. Bệnh xá Sư đoàn 307 nằm cạnh kho quân khí nên anh em đồng đội trong đơn vị chúng tôi đều thấy rất rõ các thương bệnh binh được chuyển từ mặt trận về. Nhiều thương binh được đưa về bệnh xá trên những chiếc võng cáng thương, họ phải vượt đường rừng hơn 40 - 50 cây số. Không ít trường hợp cả chiến sĩ tải thương lại dẫm phải mìn của kẻ thù, và chính họ cũng trở thành thương binh... Chiến trường mùa khô khốc liệt lại càng thêm khốc liệt hơn. Chứng kiến cảnh ấy chúng tôi vừa thương xót đồng đội đến trào nước mắt, vừa phải nén lòng lại tập trung thực hiện nhiệm vụ. Ai cũng nghiến răng quyết tâm cho chiến thắng.
Tôi có 3 năm 6 tháng là lính tình nguyện ở chiến trường K. Gần 4 năm ấy tôi ở Preah Vihear. 4 cái tết ở chiến trường là 4 mùa xuân tôi không được gặp mặt người thân, không một lần về phép thăm nhà. Và có thể bây giờ nhiều bạn sẽ không tin, trong từng ấy thời gian, chúng tôi không hề được nhìn thấy bóng dáng phụ nữ, dù chỉ là thoáng qua giây lát. Bấy nhiêu đã đủ để bạn có thể hình dung cuộc sống của chúng tôi ngày ấy gian khó, thiếu thốn như thế nào. Vậy mà chúng tôi chưa phải là những người cực khổ, chịu nguy hiểm nhất. Cứ nghĩ lại những đồng đội mình ngã xuống trên đất bạn, nước mắt tôi lại chực trào ra. Những giằng xé tâm can vào năm tháng ấy, giờ nghĩ lại còn thấy nghẹn ngào.