Từ đâu mà có “tào khang”?
Trong lời nói hằng ngày, trong thơ văn và ca từ một số bài hát, ta thường nghe hai chữ “tào khang” (có nơi đọc chệch là “tào khương” vì “khương” là cách đọc chữ “khang” ở miền Nam) để chỉ tình cảm vợ chồng. Thật ra, từ đúng phải là “tao khang”. “Tào khang” là do đọc lệch mà thành (vì sao có thể đọc lệch như vậy là câu chuyện rất dài về ngữ âm, chúng tôi xin phép trình bày trong một bài viết khác).
“Tao khang” là một từ gốc Hán trong tiếng Việt. Trong đó, tao nghĩa là “cặn rượu”, tức “hèm” (bộ mễ với nghĩa “gạo” quy định nét nghĩa này). Khang (cũng bộ mễ) nghĩa là “cám”, “trấu”. Như vậy, “tao khang” là một danh ngữ đẳng lập, nghĩa gốc là “bã rượu và cám”, sau đó hoán dụ để chỉ “thức ăn kham khổ của người nghèo”. Vậy, do đâu mà từ này lại chỉ nghĩa vợ chồng, tức “nghĩa tào khang”. Điều này bắt nguồn từ một điển tích trong văn hóa Trung Hoa, như sau:
Đời nhà Hán, có ông Tống Hoằng là hiền thần dưới triều Quang Vũ Đế. Ông có người vợ bị mù. Hằng ngày, tự tay ông chăm sóc vợ. Chị của vua là công chúa Dương Hồ rất ái mộ Tống Hoằng. Biết ý, vua bèn hỏi để thăm dò Tống Hoằng rằng: “Ngạn vân: quý dịch giao, phú dịch thê, hữu chư?” (tạm dịch: Ngạn ngữ nói: sang thì đổi bạn, giàu thì đổi vợ, có vậy chăng?). Ông Tống bèn trả lời: “Thần văn: bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường” (Thần nghe: người bạn thuở nghèo hèn thì không thể quên, người vợ thời cám hèm thì không thể đưa xuống nhà dưới [tức hắt hủi, phụ bạc]). Biết Tống Hoàng một lòng với vợ, vua Quang Vũ từ bỏ ý định tác hợp.
Như vậy, “tao khang” là dạng rút gọn của danh ngữ “tao khang chi thê” mà tiếng Việt ta có cụm từ tương đương là “người vợ tấm cám”, “vợ tấm mẵn”. Từ tích trên, “tao khang” được dùng để chỉ tình nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở nghèo khó.
Trong văn hóa của người Hán, có 7 lý do mà chồng có thể đuổi vợ, gọi là “thất xuất”, “thất khứ” hay “thất khí”. Nhưng cũng có 3 điều mà chồng không thể đuổi vợ, gọi là “tam bất khứ”. “Tao khang chi thê” là một trong “tam bất khứ”. Đó là: Người vợ cưới lúc nghèo hèn thì sau dù trở nên giàu cũng không thể bỏ. Trong văn hóa của dân tộc mình, người Việt không đặt ra điều kiện để bỏ vợ như người Hán. Ngược lại, tình nghĩa vợ chồng lại được người Việt ta rất đề cao, đây là một điểm mạnh trong khả năng gạn lọc - tiếp nhận của văn hóa Việt.
ThS. PHẠM TUẤN VŨ