Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở Phù Mỹ: Tăng năng suất, tăng thu nhập
Qua 2 năm thực hiện Chương trình hành động số 07 của Tỉnh ủy về phát triển KH&CN giai đoạn 2016 - 2020, từ vốn ngân sách và huy động các nguồn lực, huyện Phù Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ đồng cho hoạt động ứng dụng KH&CN vào sản xuất, đem lại hiệu quả thiết thực.
Trước hết, huyện chú trọng thực hiện chương trình cấp 1 hóa giống lúa và phát triển cây lúa lai trên địa bàn; chọn lọc, nhân giống, đưa vào sản xuất đại trà các giống lúa mới có khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên của địa phương, có chất lượng tốt, năng suất cao, xem đây là bước đột phá về năng suất lúa. Năm 2017, tổng sản lượng lương thực có hạt toàn huyện là 122.270 tấn, đạt 106% kế hoạch, tăng 13.175 tấn so với năm 2015.
Tàu vỏ thép của ngư dân Phù Mỹ đánh bắt xa bờ đạt hiệu quả cao. Ảnh: X.L
Huyện còn tập trung đẩy mạnh sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn (CĐML), CĐM tạo điều kiện áp dụng những kỹ thuật mới, giải quyết đầu ra ổn định và có lợi cho nông dân. Năng suất bình quân các CĐML, CĐM tăng 5 - 7 tạ/ha so với năng suất bình quân toàn huyện.
Việc xây dựng CĐML, CĐM còn giúp thực hiện chương trình “3 giảm, 3 tăng” đạt hiệu quả; hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất thân thiện với môi trường. Một số mô hình nổi bật như: Diệt chuột bằng chế phẩm Biorat; trồng hành vụ Thu Đông trên đất cát; áp dụng cơ giới hóa khâu gieo hạt trong thâm canh cây đậu phụng, cây bắp; thực hiện IPM trong sản xuất thâm canh cây lúa; trồng thâm canh giống cỏ chất lượng cao Mombasa... Các mô hình này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập đáng kể cho nông dân.
Áp dụng tiến bộ KH&CN vào chăn nuôi, huyện tiếp tục thực hiện chương trình lai cải tạo đàn bò; xây dựng 13 mô hình chăn nuôi bò thịt, nuôi gà trên nền đệm lót sinh học… Hiện Trạm Khuyến nông huyện đang thực hiện đề tài cấp tỉnh về nghiên cứu sản xuất và sử dụng trùn quế dùng cho các loại cây trồng; đồng thời phối hợp với Viện Nghiên cứu nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ thực hiện một số mô hình sản xuất giống lúa, giống bắp mới năng suất cao.
Tiếp tục chỉ đạo xây dựng mô hình sản xuất muối sạch trải bạt, áp dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất muối sạch, bước đầu thay đổi tập quán canh tác lâu nay của diêm dân địa phương; tạo sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm. Năng suất muối sạch trên nền bạt tăng 20% so với phương pháp sản xuất truyền thống, đảm bảo đầu ra ổn định với giá tăng cao.
Ứng dụng KH&CN có hiệu quả vào sản xuất giống tôm chân trắng và tôm sú có năng suất và chất lượng cao, sạch bệnh. Sử dụng các chế phẩm sinh học kích thích sinh sản trong quá trình sản xuất các giống cá nước ngọt; nghiên cứu đặc điểm sinh học của một số giống loài thủy sản có giá trị kinh tế thích nghi và phát triển tốt ở các vùng sinh thái của huyện… để đưa vào sản xuất. Các mô hình nuôi tôm trên cát; nuôi tôm quảng canh; nuôi cá chẽm; nuôi cua thương phẩm; nuôi lươn trong bể xi măng... đều đạt hiệu quả cao. Hiện toàn huyện có 1.107 tàu cá, tổng công suất 282.249 CV, tăng trên 56.000 CV so với năm 2016; tổng sản lượng khai thác thủy sản năm 2017 đạt 74.200 tấn, tăng 1.385 tấn so với cùng kỳ năm 2016.
Trong thời gian đến, huyện tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất nông, ngư, diêm nghiệp; chú trọng lai tạo và nhân giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, thích ứng với điều kiện tự nhiên ở địa phương. Phát triển các chế phẩm sinh học phòng trị bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Tăng cường ứng dụng KH&CN trong chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy, hải sản, sản xuất nước mắm, chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và bảo vệ môi trường… Qua đó, góp phần nâng cao năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nghèo bền vững và phát triển kt-xh ở địa phương.
XUÂN LỘC