Vang danh thợ ngọn Tri Thiện
Thôn Tri Thiện (xã Phước Quang, huyện Tuy Phước) là cái nôi sản sinh ra những lớp thợ ngọn - thợ vôi (thợ nề, thợ hồ) chuyên xây dựng và chạm, khắc, đắp chữ, hoa văn trang trí trên các công trình văn hóa tâm linh như đình, chùa… Trải qua thời gian, thợ ngọn ở Tri Thiện hiện chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, tiếng thơm về một làng nghề cùng những người thợ tài hoa còn lưu truyền mãi.
Tương truyền, nghề thợ ngọn ở Tri Thiện bắt đầu hình thành dưới thời Tây Sơn, khi Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc lên ngôi, cho xây dựng thành Hoàng Đế. Thợ xây thành là thợ ở kinh thành Phú Xuân (Huế) đảm nhiệm, nhưng có thuê nhân công là người địa phương để phụ việc. Nhân công được thuê mướn chủ yếu là người ở 6 thôn: Tri Thiện, Phục Thiện, Định Thiện, Lộc Ngãi (Phước Quang), Liêm Trực, Quảng Nghiệp (Phước Hưng). Nhờ năng khiếu “trời cho”, chỉ có người Tri Thiện là “học lỏm” được và theo nghề thợ ngọn.
Đền thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo (tại 596/17 Trần Hưng Đạo, phường Thị Nại) do thợ Tri Thiện xây dựng.
- Trong ảnh: Lễ tưởng niệm 713 năm ngày mất anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo - năm 2013.
Xứng danh thợ ngọn Tri Thiện
Ở Tri Thiện bây giờ, thợ ngọn chính gốc và lão làng nhất chỉ còn lại ông Nguyễn Văn Tiên, tên thường gọi là Sáu Tiên, tuổi đã 85. Những bạn nghề cùng thời với ông đã khuất núi cả.
Thời trai trẻ, ông Sáu Tiên học nghề từ thầy Thừa Yên, một thợ ngọn giỏi có tiếng ở Tri Thiện. Được mấy năm, thầy Thừa Yên về sống tại quê vợ ở Vinh Thạnh (Phước Lộc, Tuy Phước), người học trò này cũng xuống ở nhà thầy để tiếp tục học nghề. Thầy nhận làm công trình nào trò cũng theo, vừa phụ làm vừa học việc. Ông Sáu Tiên cho biết: “Đây là nghề công phu, đòi hỏi người học phải có đầu óc, tính toán về mực thước, tỉ lệ, phải có hoa tay, thông thạo chữ nghĩa. Tùy mức độ tiếp thu, kiên trì, chịu khó và năng khiếu mà học nghề nhanh hay chậm, nhưng người bình thường theo học ròng rã 5, 7 năm chưa chắc đã ra nghề”.
Là con trai một, từ nhỏ ông Sáu Tiên đã được cha mẹ cho học chữ Hán bài bản. Với công việc đắp, khắc Hán tự trên các công trình, vốn chữ Hán của ông Tiên càng có đất dụng võ. Năm 55 tuổi, ông bắt đầu lên hàng thợ cả, “lĩnh xướng” toán thợ ngọn với trên 20 thợ lành nghề, tham gia tạo tác nhiều ngôi chùa, đình làng lớn, nhỏ trong tỉnh.
Ông Trần Đình Trắc, một người con quê hương Tri Thiện, là nhà giáo về hưu (hiện sống tại 250 Phan Bội Châu, TP Quy Nhơn), đang ấp ủ hoàn thành hồi ký “Sau lũy tre làng Tri Thiện” - mang dáng dấp địa chí về vùng đất này. Theo nguồn tư liệu mà ông Trắc tìm hiểu, thu thập được, những lứa thợ vôi giỏi ở Tri Thiện có thể kể đến Võ Gia, Huỳnh Tân, Bùi Chanh, Nguyễn Văn Tiên; Hai Trợ, Bốn Trỉ, Hai Tân, Ba Thức, Ba Cửu… Bàn tay chân quê và tài hoa của thợ Tri Thiện đã in dấu ấn lên rất nhiều công trình trong tỉnh, nhiều nhất là các ngôi chùa, cả khi xây mới hay trùng tu, sửa sang, như chùa Thiên Hòa (xã Phước Quang), Bảo Thọ (xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước); Tịnh Liên, Giác Hoàng (phường Bình Định), Thập Tháp (phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn); Thái Phong, Linh Phong (Cát Tiến, Phù Cát); Long Khánh, Tâm Ấn, Phúc Kiến, Lộc Uyển, đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo (Quy Nhơn)…
“Ngoài vững về nền móng, kết cấu, tỉ lệ, thợ vôi Tri Thiện rất có năng khiếu về trang trí. Có một giai thoại về tài nghệ của thợ Tri Thiện, rằng nhóm thợ Võ Gia, Huỳnh Tân… nhận đắp, chạm trổ hình khóm trúc - biểu tượng quốc huy của chế độ Việt Nam Cộng hòa - lên vách tiền sảnh Ty Văn hóa - Thông tin Bình Định với tiền công là 3.000 đồng. Đến khi hoàn thành, nghiệm thu, những người thợ này được trả công tới 10.000 đồng và đích thân Phó tỉnh trưởng chiêu đãi tại nhà hàng Ngũ Châu thời bấy giờ”, ông Trần Đình Trắc kể.
“Chạnh lòng tưởng nhớ sức cha ông…”
Lần giở lại các món đồ nghề năm xưa, lòng ông Sáu Tiên bồi hồi pha lẫn tiếc nuối. Không tiếc sao được khi những năm gần đây, nhu cầu phục dựng, xây dựng các công trình văn hóa tâm linh phục vụ cộng đồng ngày càng nhiều thì thợ ngọn Tri Thiện không còn đủ nhân lực, trình độ để đáp ứng. “Bây giờ thợ chuyên xây đình, chùa, nhà cổ… ở các nơi khác đông, giỏi nghề và chuyên nghiệp quá, thợ mình chắc “chen chân” không lại họ. Tiếc thì tiếc vậy thôi, nhưng tiếng thơm thợ ngọn hay thợ vôi, thợ hồ nói chung ở Tri Thiện không dễ gì mất đi. Mỗi thời mỗi khác, người Tri Thiện hôm nay vẫn cơm no áo ấm nhờ rất lớn từ nghề này”, người thợ ngọn chính hiệu cuối cùng của làng nghề Tri Thiện cười mãn nguyện.
Tôi hiểu điều ông muốn nói. Ở Tri Thiện bây giờ, thợ ngọn chính hiệu tuy chẳng còn ai, song, thợ xây dân dụng bình thường “lấn sân” sang xây đình chùa, nhận chạm trổ hoa văn trang trí thì không hiếm. “Lớp thợ trung niên được thừa hưởng chút ít ngón nghề thợ ngọn, ngoài việc chính là xây nhà ở, thỉnh thoảng chúng tôi cũng được mời xây mới hoặc tu sửa, chỉnh trang một số ngôi chùa, đình làng quy mô nhỏ ở nông thôn. Tuy tay nghề, hiểu biết về chữ nghĩa, họa tiết trang trí… không bằng tiền bối, nhưng khi được tin tưởng giao phó, chúng tôi đều cố gắng hết mức, dặn lòng không phạm đến tiếng thơm đã có về một nghề truyền thống của làng mình”, thợ Huỳnh Văn Hạnh tâm tình. Ông Hạnh cùng người anh em Phan Văn Hùng là hai thợ xây lành nghề, đồng thời khá chắc tay đảm nhiệm thêm phần việc của thợ ngọn khi có nhu cầu. Hiện tại, hai ông đang tham gia chỉnh trang một số hạng mục trong ngôi chùa Thiên Hòa của thôn.
Tiếp bước nghề cha ông để lại, thôn Tri Thiện hiện có “sơ sơ” khoảng… hai trăm người theo nghề xây dựng, làm nghề khắp trong, ngoài tỉnh. Nơi đây được xem là “làng thợ hồ”. Khi được ông Hạnh cho biết thông tin thú vị này, tôi thêm thấm thía hai câu thơ làm lời tựa trong hồi ký “Sau lũy tre làng Tri Thiện”. Thơ rằng: “Lớp lớp chồi măng, tre vững gốc/Chạnh lòng tưởng nhớ sức cha ông…”
SAO LY