Tăng 26 bậc, Việt Nam đạt thứ hạng cao nhất về đổi mới sáng tạo
Việt Nam được đánh giá cao về chỉ số đổi mới sáng tạo so với thứ hạng GDP. Nhằm trong nhóm 30 nước có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam lọt top 5 về các chỉ số đổi mới sáng tạo, đứng thứ 45/126 quốc gia trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII.
Việt Nam được đánh giá cao về mức độ tăng bậc liên tục trên bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu GII. Cụ thể Việt Nam xếp thứ 71 năm 2014; 59 năm 2016; 47 năm 2017 và 45 năm 2018. Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được từ trước tới nay và có thể nói là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các hoạt động ĐMST quốc gia.
Cũng theo theo báo cáo của WIPO, nếu so sánh với thứ hạng GDP thì xếp hạng ĐMST quốc gia của Việt Nam có sự vượt trội hơn hẳn. Với 37,94/100 điểm, Việt Nam đứng thứ 45/126 Quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo, tỷ lệ ĐMST hiệu quả đạt 0,8 (xếp hạng 16). Riêng trong nhóm thu nhập trung bình thấp, chỉ số ĐMST của Việt Nam xếp thứ 2/30 nước, đứng trên Moldova, Ấn Độ và Mông Cổ
Đặc biệt Việt Nam xếp thứ hai trong nhóm 30 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được đánh giá. Báo cáo GII 2018 cũng cho thấy Việt Nam nằm trong top 5 của nhóm thu nhập trung bình thấp trong tất cả các chỉ số chính về ĐMST.
Báo cáo GII 2018 chỉ ra một yếu tố quan trọng khiến Việt Nam đạt được thứ hạng cao là sự đầu tư cho giáo dục trong những năm gần đây. Cụ thể, Việt Nam đã đứng đầu 2 năm liền (2017 và 2018) về chi tiêu cho giáo dục trong số các quốc gia ASEAN. Đây rõ ràng là đóng góp lớn của ngành giáo dục đối với tăng trưởng về ĐMST quốc gia khi chi tiêu cho giáo dục tính theo GDP là 5,7% - xếp thứ 29/126.
Một thông tin đáng mừng khác, đó là Việt Nam xếp thứ 18/126 quốc gia về giáo dục cũng trong Báo cáo GII 2018. Đây có thể coi là thành công bước đầu rất đáng kể của toàn ngành giáo dục sau khi Nghị quyết 29 được ban hành và triển khai rộng rãi.
Sự đầu tư cho giáo dục không chỉ thể hiện ở việc đẩy mạnh chi tiêu chung, mà đặc biệt thể hiện qua việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo nguồn nhân lực gắn với nghiên cứu khoa học (NCKH).
Một trong số các mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là hoạt động NCKH. Hoạt động NCKH được thể hiện thông qua: số lượng NCKH của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), qua các thông bố quốc tế và khả năng ứng dụng thực tiễn.
Năm 2010, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong 56.000 cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng chỉ có khoảng 1.100 giảng viên (chiếm 3%) tham gia NCKH và rất ít giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu.
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết 29, theo Báo cáo Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2016, khu vực các trường đại học đóng góp hơn 50% tổng số nhân lực khoa học công nghệ (KHCN) trong cả nước. Tính đến hết năm 2017, trong các cơ sở giáo dục ĐH đã có 945 nhóm nghiên cứu.
Các nhà khoa học trong ngành giáo dục đã có nhiều đóng góp cho phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội, đạt được nhiều giải thưởng cao quý quốc tế và quốc gia…
Theo ANTD