Nửa miền thương nhớ
* Truyện ngắn của LÊ HỨA HUYỀN TRÂN
Suốt chặng đường dài đến Quảng Nam tôi không một phút ngừng suy nghĩ tìm cách làm sao để nghe được giọng Quảng, hiểu những từ địa phương và cả cách chiếm cảm tình chủ nhà - nơi ở nhờ suốt quãng thời gian thực tập tốt nghiệp - bởi nghe đâu người xứ này khó gần và… hay cãi. Phải vắt óc ra như vậy bởi tôi là một con bé khá tệ giao tiếp.
***
Xe dừng. Người dân đón đoàn chúng tôi với ánh mắt vừa tò mò vừa trìu mến. Cái nhìn của bọn trẻ thơ thì hồn nhiên hơn, lộ rõ vẻ ngạc nhiên, hẳn rồi đương không lại có một đoàn người nói giọng hoàn toàn khác, tới khuấy động cả làng quê yên ả, lại còn ở lại trong nhà chúng nữa. Lớp chúng tôi nhanh chóng được những người dân đón về nhà mình. Nhóm chúng tôi có năm đứa, chưa đứa nào từng đến Quảng Nam.
Minh họa: Tranh của LÊ VĂN XƯƠNG
Chúng tôi đi sưu tầm những văn hóa dân gian, Quảng Nam là xứ giàu truyền thống, chứa đựng không biết bao nhiêu là kho tàng dân gian vô cùng quý báu ấy. Nơi đây đón tôi bằng cái nắng trìu mến như nụ cười rạng rỡ của những cụ già trong làng. Cô Sương - chủ nhà tôi ở trọ trạc bốn mươi, gương mặt khắc khổ như hầu hết những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Cô chào đón chúng tôi bằng nụ cười hiền, làn da rớm nắng và thái độ vội vã vì đương buổi ra đồng.
- Mấy đứa nằm chỗ đó, bếp chỗ này, ăn thì lấy chỗ kia nghen, cứ tự nhiên nhen bây!
Làng quê Quảng Nam yên ả lắm và khoác lên mình một vẻ buồn thăm thẳm của những cánh đồng xanh tít tắp. Những buổi sớm tôi hay dậy từ khi gà còn chưa gáy, bởi nhịp sống ở miền quê bắt đầu khi hãy còn tinh sương, tôi nhẹ nhàng ra thềm ngồi, và ngắm nhìn cô Sương đang quét vội mảnh sân trước nhà, cho lũ gà ăn rồi cầm cày cuốc ra đồng. Cánh đồng rộng lắm, dường như không thể nào thấy điểm đến, cánh đồng này nối tiếp cánh đồng kia cứ như những mảng màu trên một bức tranh từng ô, từng ô. Nước từ sông Thu Bồn theo kênh chảy trực tiếp vào đồng dồi dào, yên ả. Trên những cánh đồng bắt đầu thưa thớt người rồi ngày một đông hơn, và khi gà bắt đầu gáy những tiếng đầu tiên, người dân đã ra đồng gần hết. Họ chăm chú làm công việc của mình tới đỗi không để ý có một cô bé đang thơ thẩn phía xa xa nhìn những giọt mồ hôi họ rơi xuống. Tôi quay về với công việc của mình, đi cùng nhóm tìm những cụ già hỏi về những câu ca dao, những bài hát hò mà ghi ghi chép chép.
Miền quê này là miền quê của những anh hùng, hầu như trước nhà đều có những tấm bảng ghi thật to “không có gì quý hơn độc lập tự do”, còn nhà hầu như có rất ít thanh niên trai tráng, chủ yếu là những cụ già, hoặc những người phụ nữ trung niên như cô Sương. Có lẽ mảnh đất quê nghèo khiến họ bôn ba dùng sức mình đi tìm kế sinh nhai nơi xa xôi nào đó. Người dân, họ rất tận tình với chúng tôi, có vài người sẵn sàng hát những điệu hò khoan cho chúng tôi ghi âm lại, có người lại dành thời gian đọc cho chúng tôi chép nữa. Lại có bác tổ trưởng, đạp xe từ đầu xóm tới cuối xóm mượn cho chúng tôi được quyển lục bát dân gian để chúng tôi tiếp thu cho kỳ được… Họ giành cho chúng tôi những niềm vui, giống như những người chủ nhà cảm thấy vui vì có khách đến, vui vì những người khách này trân trọng văn hóa quê hương mình và cả vui vì chốn làng quê yên ả bỗng nhiên tíu tít cười nói, tò mò của những người khách lạ.
Cô Sương đi làm về trời đã quá trưa, thấy chúng tôi vẫn đương ngồi bên bàn ăn, cô ngạc nhiên:
- Chừ tụi bây làm cái gì? Sao chưa ăn?
- Tụi con đợi cô ăn chung cô ơi!
- Không đợi chi hết, lần sau ăn trước đi nghe chưa?
Chúng tôi chỉ cười cười nhưng đột nhiên hôm sau cô về sớm hơn mọi bữa. Có lẽ cô biết lũ chúng tôi vẫn sẽ đợi cô về ăn. Lại có bận nhà hết gạo, chúng tôi chia nhau đi chợ, đi mua cả đồ ăn, cô về nhìn thấy, đột nhiên giận chúng tôi ra mặt:
- Cô giận tụi bây rồi đấy!
- Hơ? Sao cô lại giận?
- Hết gạo thì nói cô mua, cô đi làm quá có để ý gì tới gạo đâu? Tụi bây có bao nhiêu tiền đâu mà mua, hỉ?
Tự nhiên chúng tôi cười xòa mà ai cũng xúc động vì tấm chân tình của người xứ Quảng. Chúng tôi tới đây đương mùa lễ hội, cô quyết định nghỉ một ngày dẫn chúng tôi qua bên kia sông xem lễ hội sông Thu Bồn. Cái cảm giác bồng bềnh trên ghe thú vị quá chừng, chúng tôi tạt nước qua lại làm ướt cả áo cô nhưng cô chỉ cười, tươi như nắng trên sông không một chút nhíu mày. Lễ hội đông nghịt những người là người, chúng tôi mua cho mình đầy những túi bòn bon, thứ trái chua ngọt chấm muối ớt thì rất tuyệt và cũng là đặc sản của những người dân nơi đây. Người đi hội, người bán hàng gương mặt ai cũng tươi cười vui vẻ. Hình như người xứ Quảng rất siêng cười, chưa thấy hay cãi đâu cả nhưng cười thì đi đâu cũng thấy. Chúng tôi còn mua những chiếc mặt nạ đeo rồi choảng nhau í ới. Cái khung cảnh đua ghe mới thực là thích, những chiếc ghe lao nhanh trên mặt nước trong tiếng hò reo của người dân, và khi dù một chiếc nào thắng cũng nhận được sự hò reo khích lệ của họ. Ngay cả tôi cũng thấy vui sướng lây như những người thắng cuộc.
Mùa lễ hội xe cộ đông nghịt, tôi vô ý để một chiếc xe cán qua chân, rách toạc cả da. Đám bạn cùng nhà xuýt xoa thôi rồi còn cô thì gần như thức trắng. Thi thoảng quên cả cơn đau, tôi chìm trong cơn mê vì mệt mỏi, bất giác thấy một bóng dáng cao gầy đi vào phòng, nâng chân tôi lên, xoa chút dầu thơm thơm, và cứ lấy đèn pin soi chân tôi, thi thoảng lại sờ tay lên trán tôi xem tôi có bị vết thương hành cho sốt không. Sáng hôm sau, mấy cô nhà kế bên còn đem qua nhà tôi những cái lá gì đó nhai bã ra rồi đắp vào vết thương nữa. Tình cảm của họ làm tôi chợt xúc động, tôi nhớ lại khi chúng tôi mệt lả sau chuyến đi dài, ủy ban xã là nơi chúng tôi dừng đầu tiên, đứa nào cũng muốn lăn ra ngủ, các anh bộ đội đã nhường chỗ của mình cho chúng tôi ngả lưng…
Chúng tôi đặc biệt thích những trái bòn bon, nhai rất vui miệng, cứ mỗi chiều, khi đợi cô đi làm đồng về chúng tôi hay lấy ra chấm muối ớt ăn rất ngon, đứa nào đứa nấy xuýt xoa vì có khi trúng trái chua lè nhưng rất…đã. Nhưng bòn bon chỉ bán bên kia sông nên khi cần chúng tôi lại phải gọi đò sang đấy. Nhiều lần tôi đã ghi vội những câu ca, những lời ru mà người trên đò cung cấp, ai cũng hăng hái giúp chúng tôi lưu giữ vốn quý quê nhà.
Ngày chúng tôi về sau cả tháng trời gần gũi nhớ thương, hầu hết người dân đi tiễn. Tôi ngoái nhìn tìm cô nhưng không thấy, bên xe, thấy vài nước mắt lã chã rơi của con nhỏ bạn đang tiễn cô chủ nhà của nó, thấy tiếng í ới hứa sẽ quay lại vào một ngày nào đó không xa của những đứa khác, thấy tiếng dặn dò của bà con, thấy cả bác tổ trưởng dúi vào tay một đứa lớp tôi một tập sách dày cộm… Xe lăn bánh, mới ngồi yên vị tôi đã nghe tiếng cô Sương, cô chạy với theo rồi dúi qua khung cửa xe một bọc lớn màu đen “lo học nghe mấy đứa, rảnh thì ra cô chơi”, tôi mở túi ra, ôi những trái bòn bon căng mọng xứ Quảng…
Tôi tự cho phép mình chia trái tim ra làm hai miền để nhớ thương. Một miền là mảnh đất nơi tôi sinh ra và lớn lên, cho tôi uống nguồn sữa non trưởng thành, còn mảnh đất còn lại là nơi đã cho tôi biết bao niềm lạc thú, khiến tôi dẫu đã trôi qua ngày ấy biết bao lần khi nhớ về hãy còn hấp dẫn say mê. Một mảnh đất là quê tôi, nửa miền nhớ thương còn lại là chốn thiêng Quảng Nam yêu dấu. Cứ nhớ về tôi lại thao thức bâng khuâng, tim đánh thành từng nhịp có phần đớn đau, bồi hồi, xúc động khi nhớ về nửa miền nhớ thương năm ấy...