Những con ruồi trên bệ cửa sổ
* Truyện ngắn của ALICE MUNRO
Lời giới thiệu: Giải thưởng Nobel Văn học năm 2013 đã thuộc về Alice Munro - nữ văn sĩ người Canada. Bà được Viện Hàn lâm Thụy Điển suy tôn là “bậc thầy của truyện ngắn đương đại”. Các tác phẩm của Alice Munro thường tập trung vào những vấn đề của đời sống xã hội với bao biến thiên, thay đổi trong tâm hồn con người khi đối diện với những bước chuyển của văn hóa và lịch sử. Trên phương diện nghệ thuật, bà nổi tiếng với việc tạo dựng những chi tiết chân thực, với khả năng phân tích tâm lý sắc sảo và những kết thúc bất ngờ.
Trước khi được vinh danh cùng giải Nobel, nữ sĩ Alice Munro đã giành được nhiều giải thưởng văn chương quan trọng khác, như giải Man Booker (2009), giải Governor General của Canada…
Nàng tựa mình trên chiếc ghế dựa cũ kỹ trong căn phòng kính ở nhà nàng. Nàng không định đi ngủ. Bây giờ đang là một buổi chiều cuối thu đẹp đẽ, thanh bình - ngày diễn ra cuộc tranh tài Grey Cup, mà nhẽ ra nàng sẽ tham dự tiệc tùng với mấy người bạn, và cùng theo dõi trận đấu qua truyền hình. Vào phút cuối, nàng đã lấy lý do để được ở nhà. Mọi người cũng đã bắt đầu quen với cách xử sự này của nàng, mặc dầu vài người vẫn tỏ ra lo lắng. Nhưng nếu nàng góp mặt, thói quen và nhu cầu khẳng định mình luôn biến nàng thành linh hồn của buổi tiệc. Vì thế, mọi người cũng chẳng lo ngại gì nhiều.
Những đứa con nói với nàng, hy vọng nàng không sống trong quá khứ.
Nhưng nàng tin rằng: điều mình đang làm, điều mình muốn làm, nếu có thời gian, không phải là sống trong quá khứ mà là mở cánh cửa quá khứ để nhìn sâu nào nó, thấu hiểu về nó.
Nàng dần dần thiếp đi trong nắng chiều, và nàng nhận thấy mình đang bước vào một căn phòng nào đó xa lạ. Căn phòng kính, rực sáng, chìm khuất vào một hành lang tăm tối. Chìa khóa gắn ở cửa phòng, nàng nghĩ rằng chìa khóa luôn được gắn như thế, dù việc này, nàng chưa bao giờ gặp trong đời thực.
Đó là một phòng trọ tồi tàn, một căn phòng dành cho những người khách nghèo túng, khổ sở. Một chiếc đèn trần, mấy cái móc áo làm bằng kẽm, một tấm vải hoa màu hồng chen lẫn màu vàng có thể kéo qua lại, che phủ nơi phơi quần áo. Tấm vải hoa có lẽ là để mang đến cho căn phòng chút sinh khí, nhưng kỳ thực, nó lại có tác động ngược lại.
Nàng nhận ra Ollie - chồng của nàng, Ollie đang nằm trên giường. Mới đây, chàng và nàng đã đi khắp mọi miền bằng xe hơi, và chỉ mình chàng cầm lái trong những chuyến lưu diễn ấy. Với cái nóng bức và bụi bậm của ngày hôm này, người chàng mệt mỏi, rã rời. Nàng không biết lái xe. Nàng đang lịch kịch mở những chiếc tủ đựng áo quần, và đi tắm. Khi nàng bước ra, chàng đang ngái ngủ, nhưng qua khe mắt nhắm hờ, chàng thấy nàng đang tự ngắm mình trước tấm gương gắn ở tủ áo quần, cái gương lấm tấm những vệt đen ở những chỗ mà lớp tráng thủy ở mặt sau bong đi. Nàng mặc một chiếc váy satin màu vàng, một cái khăn quàng màu đen có in hình hoa hồng. Trang phục được may theo ý nàng, nhưng chẳng hề tôn lên vóc dáng của người mặc. Da mặt nàng đã được đánh phấn, nhưng vẫn thiếu sinh khí. Những lọn tóc được kẹp và xịt keo, cứ như một cái mũ nằm bẹp dí trên đầu. Đuôi mắt chằng chịt những nếp nhăn, mí mắt sụp, trông buồn ảo não. Có thể nói, toàn bộ cơ thể nàng như bị kéo xuống bởi sức nặng của mớ áo quần, tóc tai và son phấn.
Nàng đến bên giường, cúi xuống và cởi giày cho chàng. Chàng bảo nàng không cần phải làm thế. “Anh chuẩn bị phải đi đây! - chàng nói - Anh phải đến gặp họ”.
Nàng chẳng nói gì, nàng đứng trước gương và tự ngắm mình, với lớp y phục rườm rà và bộ tóc giả. Tâm hồn nàng trĩu nặng, nàng bước quanh phòng như định làm một điều gì đó, nhưng rồi chẳng biết phải làm gì.
Ngay khi cúi xuống định cởi giày cho Ollie, nàng cũng không nhìn mặt chàng. Và chàng nhắm nghiền mắt để tránh nhìn thấy mặt nàng. Họ đã trở thành những diễn viên chuyên nghiệp, họ cùng ăn, cùng ngủ, cùng ở bên nhau. Thế nhưng, trừ những lúc trước đôi mắt của khán giả, họ chưa bao giờ dám nhìn lâu vào mắt nhau. Họ sợ phải nhận ra một điều gì đó khủng khiếp.
Tủ quần áo với tấm gương loang lổ được kê sát tường - che một phần cửa sổ, khiến ánh sáng bên ngoài bớt lọt vào phòng. Nàng tỏ ra nghi ngại trong chốc lát rồi gắng hết sức nhích một góc tủ dịch chuyển sang bên vài tấc. Nàng nín thở vén tấm màn đầy bụi lên, chợt thấy, ở phía xa nhất của bệ cửa sổ, vốn bị che khuất bởi màn cửa và tủ quần áo, là một đống ruồi.
Ai đó từng sống trong căn phòng này, đã tiêu khiển bằng cách giết những con ruồi, rồi nhặt xác chúng, chất thành đống, bỏ trong hốc cửa sổ này. Nàng kêu lên khi nhìn thấy chúng, không phải vì hốt hoảng mà vì ngạc nhiên, thích thú. Thật lạ! Những xác ruồi khiến nàng cảm thấy vui, giống như đó là châu ngọc dưới kính hiển vi, những sắc màu lấp lánh, cánh mỏng như voan. Nàng gào lên, nhưng không phải vì nàng thấy những con ruồi ở bệ cửa. Mà vì nàng không có kính hiển vi, và những con ruồi đã mất đi màu sắc óng ánh của mình khi chúng chết. Những thân thể nhỏ bé, lộn xộn của lũ ruồi hòa trộn vào nhau nơi góc kẹt. Nàng có cảm giác sẽ nhìn thấy chúng ngay khi nàng đặt tay lên tủ áo hay vén tấm màn.
Nàng đã làm Ollie tỉnh ngủ, đánh thức chàng. “Việc gì thế?”, chàng làu bàu. “Em bị ong đốt à?”. “Không!”, nàng nói, chỉ tay vào lũ ruồi. “Em biết chúng nằm ở đó”.
Ollie ngay lập tức hiểu ra ý nghĩa của việc ấy đối với nàng, niềm vui của nàng, mặc dầu chàng không thể hòa cùng vào niềm vui ấy. Giờ đây, chàng chỉ quan tâm mỗi một điều, là làm thế nào cho những lần diễn xuất của chàng và nàng thành công.
“Em biết vào lúc nào?”.
“Khi em nhìn vào trong gương. Khi em nhìn cửa sổ. Em cũng không biết lúc nào nữa”.
Nàng vui sướng, giọng nói trong trẻo, đôi mắt long lanh như bao lớp bụi trần đã được tẩy rửa. Nàng với tay ôm quàng cổ chàng và tựa đầu sát ngực chàng, khiến những giấy tờ bỏ trong túi áo của chàng kêu sột soạt.
Đây là những giấy tờ bí mật mà chàng có được từ một bác sĩ nổi danh - một người mà chàng gặp trong cái thành phố này, chuyên về chăm sóc sức khỏe cho những người nghệ sĩ phải lưu diễn dài ngày. Chàng bảo với vị bác sĩ ấy chàng rất lo lắng về tình trạng tâm lý của nàng - người có thể nằm bẹp trên giường nhìn trần nhà hàng tiếng đồng hồ mà không lộ vẻ đói khát, người nhiều ngày có thể không nói một lời (trừ khi phải biểu diễn trên sân khấu). Nàng không phải là một người bình thường, nàng là một người độc đáo, sống với người độc đáo có thể sẽ hết sức căng thẳng. Nàng đã từng bị bệnh động kinh, và sẽ như thế nào nếu những cơn động kinh ấy quay trở lại. Bác sĩ hiểu chuyện này và đã chỉ cho chàng một nơi để đưa nàng đến điều trị, an dưỡng tinh thần.
Chàng không muốn nói cho nàng biết việc này. Quả tình, nàng cũng đã cảm nhận một điều gì đấy, nhưng nàng không muốn biết.
Nàng tin rằng, họ có thể làm những điều khác với việc này, họ có thể cùng sống một cuộc đời khác. Còn chàng, chàng sẽ quên phắt cái ý nghĩ đưa nàng vào trại an dưỡng, quên phắt mớ giấy tờ vớ vẩn đó.
Nàng cảm thấy tất thảy những hiểm họa tan biến theo những tiếng sột soạt khẽ khàng dưới gò má nàng.
Dường như, một người nào đó, trầm tĩnh và quả quyết, đã đưa nàng ra khỏi căn phòng ấy - căn phòng với những móc áo bằng kẽm và tấm vải hoa. Dịu dàng, đưa nàng ra khỏi những mệt mỏi, đau khổ của cuộc đời, như xuyên qua bao lớp bồ hóng đen tuyền, qua bao lớp tro tàn mong manh, để trở về với những nguồn sáng tươi vui, trong trẻo, thuần khiết.
LÊ MINH KHA
dịch từ “Flies on the windowsill”