Nhạc võ - võ nhạc Tây Sơn
Đất Bình Định Tây Sơn hạ, xứ sở mang danh miền đất võ, quê hương của ba vị anh hùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, một buổi sớm giữa đông, lão võ sư Đinh Tuấn đã ngoại thất tuần, dắt đám môn sinh chúng tôi lội dọc mép sóng Kôn giang đầy ắp phù sa, thong thả khỏa chân bên bến Trường Trầu man mác gió, nơi các thủ lĩnh nông dân xưa từng ngược đò lên miền Tây Sơn thượng, nhóm binh trong buổi đầu khởi nghĩa.
Những lúc cao hứng, võ sư Đinh Văn Tuấn cho dời bộ trống ra vạt rừng tha hồ luyện cả ngày mà không sợ ảnh hưởng tới khu dân cư.
Khúc tưởng niệm anh hùng
Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt ngày nay chính là khu gia trang của gia đình ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - những người anh hùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn xưa.
Hai thập kỷ sau khúc quanh bi tráng của nhà Tây Sơn, những người dân đất võ chưa bao giờ dứt lòng ngưỡng vọng về triều vua cũ, đã dựng lên một ngôi đình lớn ngay trên nền nhà xưa Tam Kiệt. Tiếng là để thờ thành hoàng làng, nhưng thực chất, chính là nơi hương khói cho vương triều đã khuất. Trăm năm sau, những bà mẹ đất này vẫn ru con bằng câu ca khắc khoải:
Cây me cũ, bến trầu xưa
Dẫu không nên tình nghĩa, cũng đón đưa cho trọn niềm…
Trong các kỳ cúng tế nhà Tây Sơn ở đình Kiên Mỹ thời ẩn tích, phần khấn cáo bao giờ cũng chỉ là mật niệm, bởi để lộ việc nhắc đến vương triều cũ là mang trọng tội. Cứ mỗi dịp húy kỵ, dân làng Kiên Mỹ lại mượn bản nhạc lễ cổ truyền “Tam luân cửu chuyển” để tưởng vọng triều vua cũ. Đó là cách thức hậu nhân vừa có thể bày tỏ chính kiến, lại vừa che giấu được thân phận một cách an toàn trong buổi loạn ly. Trải qua bao thế hệ nhạc công, vẫn những nhạc cụ ngũ cung truyền thống gồm: trống, kèn, chiêng, nhị, mõ, bạt…, nhưng ở mỗi thời kỳ, người chơi nhạc lễ lại thêm thắt, biến thể các khúc thức, tiết tấu, làm cho bản nhạc thêm dày dặn, sống động.
Hơn một thế kỷ sau, khi ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị, thì đình làng Kiên Mỹ mới được công khai thờ cúng ba vị anh hùng và đổi tên thành Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt. Từ đây, bài nhạc lễ trang nghiêm nơi đền, miếu dần được biến chuyển sang hình thức diễn tấu mới rộn ràng, khai mở. Số nhạc cụ trống trong dàn nhạc cũng được bổ sung từ một chiếc lên ba chiếc, sáu chiếc, chín chiếc rồi mười hai chiếc. Bài nhạc lễ “Tam luân cửu chuyển” đã vượt khỏi không gian mật niệm hồi nhớ, để đến với công chúng trong các dịp hội hè, lễ Tết. Từ nơi thờ tự bước ra sân khấu, nó trở thành bài diễn tấu mang tên “Đả thập nhị cổ”.
Võ sư Đinh Tuấn nhớ lại: Ở xứ võ Tây Sơn, khi thời kỳ che giấu thân phận đã qua, người dân luôn náo nức xem biểu diễn bài 12 trống, bởi một lý do rất đặc biệt: bản nhạc mà người nghệ sĩ biểu diễn tung hoành bên dàn trống, vận dụng cả tứ pháp và thế, bộ của võ thuật rất uyển chuyển, liên hoàn ấy không chỉ gợi lại hào khí một thời mà như còn vương vất hình hài của một môn võ đã thất truyền ngay trên quê hương của nó: môn võ trống. Vị võ sư già không quên lúc thiếu thời, khi còn thọ giáo ba vị võ sư nổi danh làng võ là Đinh Hề, Hồ Ngạnh và Ấm Hổ, ông đã được các thầy chỉ dạy cho chiêu luyện tứ pháp bằng mấy chục cái… mô hình trống uốn bằng vành tre treo nơi góc vườn. Thầy dạy: Môn luyện võ bằng trống ngày xưa coi những chiếc trống quanh mình là đối thủ, khi xoay trở, thủ, công phải vận dụng linh hoạt tứ pháp gồm: thân pháp, thủ pháp, bộ pháp và nhãn pháp, cùng phương châm “túc bất ly địa, thủ bất ly thân”. Khi trò luyện võ, người thầy chỉ cần lắng nghe tiếng trống là lượng được võ công của người học. Cách luyện võ này được coi là đặc dị, nhưng không kém phần vi diệu bởi công năng tuyệt vời của nó. Khi nhà Tây Sơn cùng môn phái võ lui vào bóng tối, việc luyện võ bằng trống cũng phải rút bước âm thầm để bảo toàn cho môn phái, bằng cách sử dụng những vành tre không phát ra tiếng động.
Trống trận Tây Sơn và biểu diễn võ cổ truyền Bình Định tại Bảo tàng Quang Trung (Huyện Tây Sơn). Ảnh: HOA KHÁ
“Bản hùng ca” mang hồn chiến trận
Ông Tám Nga và con trai là NSƯT Văn Bá Anh ở Đoàn tuồng Liên khu 5, lúc sinh thời đều là những người từng biểu diễn rất thành công bài nhạc 12 trống vào thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau năm 1954, khi tập kết ra miền bắc, NSƯT Văn Bá Anh từng đem 12 trống đi biểu diễn ở các nước Đông Âu. Ông đã ký âm lại bản nhạc dành cho 12 trống và hướng dẫn cho một số nhạc công biểu diễn. Sau năm 1975, nhạc sĩ Đào Duy Kiền ở Nhà hát tuồng Đào Tấn là người tiếp tục ký âm, phát triển thêm một lần nữa bài nhạc trống đặc biệt này.
Khi được nhiều thế hệ nghệ nhân tham gia biểu diễn và bồi đắp, sáng tạo thêm, khúc nhạc lễ cổ truyền đã phát triển lên một tầm cao mới. Bài nhạc lễ ba hồi chín đoạn xưa, chỉ có một trống cùng dàn khí nhạc, nay được phối âm cho 12 trống và chia thành năm khúc thức, đặt tên theo nội dung tiết tấu từng phần gồm: tập binh, hành quân, xung trận, phá thành và khải hoàn. Bản nhạc mang kết cấu như một vở nhạc kịch, mô tả không khí chiến trận với sự kết hợp khéo léo giữa bộ hơi và bộ gõ, tạo nên sự đa tầng, đa dạng trong phối âm, đưa nội dung thể hiện ngày càng đến gần với sự hoàn mỹ. Từ một bản nhạc tế chỉ tấu lên mỗi dịp vọng linh xưa, ngày nay bài “Đả thập nhị cổ” đã được nhiều thế hệ tham gia sáng tạo, biến thể thành một tác phẩm mang dáng dấp sử thi, như một “bản anh hùng ca”. Với cách thức biểu diễn hòa quyện giữa chất võ và chất hội, bài nhạc đem đến cho người xem những cảm thức đặc biệt và mới lạ. Hiện nay bài nhạc mang nhiều tên gọi: “Trống trận Quang Trung”, “Bài 12 trống”, hay đơn giản chỉ gọi là bài “Nhạc võ”. Không rõ từ đâu các hướng dẫn viên du lịch khi giới thiệu với khách tham quan màn diễn tấu tại Bảo tàng Quang Trung đều đưa ra những thông tin võ đoán về nguồn gốc của bài nhạc võ. Hầu hết đều cho rằng, dàn diễn tấu gồm cả trống, kèn, chiêng, mõ, chập chõa này, xưa kia đã theo Quang Trung ra trận, để khích lệ tinh thần binh sĩ. Và dàn nhạc ngũ cung cùng trống này có nguồn gốc từ môn… võ trống. Trong mắt những khán giả mới đến đất võ lần đầu, nhạc võ, võ nhạc cứ đan xen, lẫn lộn với nhau là vậy.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận là người biểu diễn thành công nhất bản nhạc trống mang hồn chiến trận. Ảnh: HOA KHÁ
Gìn giữ gia tài ký ức
Ở Bảo tàng Quang Trung, nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận là người biểu diễn thành công nhất bản nhạc trống mang hồn chiến trận. Bà không phải là võ sư, cũng không phải là cháu chín đời của người đánh trống trận Quang Trung ngày xưa như người ta đồn thổi mà chỉ là một nông dân làng Kiên Mỹ, con gái của người chơi nhạc lễ ở Đền Tây Sơn Tam Kiệt trước kia. Năm mươi năm trước, khi không gian tế lễ còn là chốn cấm kỵ với đàn bà con gái, cha bà vì không có con trai nối dõi nên đã cùng người bạn trong ban nhạc lễ truyền nghề cho đứa con gái út mới lên sáu tuổi. Có thể lúc đó, ông đã hồi nhớ về lịch sử oanh liệt của đất Tây Sơn, vì ngưỡng mộ năm vị nữ tướng được mệnh danh Ngũ Phụng Thư, từng oai phong lẫm liệt chỉ huy hàng nghìn nữ binh chiến đấu dưới ngọn cờ đào của Tây Sơn Tam Kiệt. Ông đã không ngại ngần khi đặt vào tay cô con gái bé nhỏ đôi dùi, với sứ mệnh làm người lưu giữ ký ức hào hùng của quê hương qua tiếng trống. Bây giờ, tuổi đã cao, bà Thuận đang gắng truyền nghề cho hai nữ võ sinh trẻ trong Đội diễn võ Bảo tàng Quang Trung. Một trong hai thiếu nữ ấy là con gái bà. Cũng thật hay, cái nghề này thời trước chỉ dành cho nam giới, nay lại “vượng” theo cách mẹ truyền… con nối. Âu cũng là chuyện bình thường ở đất võ, nơi gái cũng như trai thông thạo từng đường roi, nét thảo.
Trở lại câu chuyện với lão võ sư Đinh Tuấn, người suốt một đời gắn bó với nghiệp võ. Ông từng là Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam, nhiều lần ra nước ngoài phổ biến võ Việt cho hàng nghìn môn sinh trên khắp thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều đầu sách viết về y võ và thuật võ Tây Sơn. Những năm cuối đời ông dành nhiều tâm huyết khôi phục bài luyện võ với 45 trống mà ông từng được sư phụ chỉ dạy với những vành tre trong góc vườn bí mật. Mong muốn của ông thật đơn giản: lưu lại bài võ cổ cho quê hương trước khi ông nhắm mắt. Ông đã gõ cửa nhiều nơi, và đợi cũng nhiều năm nhưng chưa tìm ra người giúp mua bộ trống. Ông ước, khi có trống sẽ gọi đám môn sinh quây quần để trao hết những ngón nghề của môn võ trống. Ký ức của ông về võ trống như một thứ di sản quý báu mà bao năm ông đã giữ gìn, nhưng ông không muốn mang theo nó trong hành trình xa xăm về với đất...
PHƯƠNG LAN