Nâng cao hiệu quả chăm sóc trẻ sơ sinh sau phẫu thuật
Chăm sóc nhi sơ sinh đã khó, với các ca bệnh phải phẫu thuật càng khó gấp bội. Với sự ra đời của khoa Nhi sơ sinh, hiệu quả điều trị hồi sức hậu phẫu cho bệnh nhi sơ sinh ở BVÐK tỉnh đã có những bước tiến rõ rệt.
Từ một ca bệnh điển hình
22 giờ 30 ngày 7.10, con gái của chị Huỳnh Thị Lệ Thủy (21 tuổi, ở thôn Trung Lý, xã Nhơn Phong, thị xã An Nhơn) được chuyển vào BVĐK tỉnh trong tình trạng bụng chướng to và có mảng bầm tím bất thường. Trước đó, ngay sau khi ra đời lúc 20 giờ 30 cùng ngày tại Trung tâm Y tế An Nhơn, bé đã được các bác sĩ chẩn đoán bị dị tật bẩm sinh bụng cóc.
Sau khi được đưa vào khoa Nhi sơ sinh, bé gái này được truyền tĩnh mạch, tiêm kháng sinh và vitamin K để chống xuất huyết. Sáng hôm sau, tình trạng của bé càng nặng hơn, nằm li bì, da tím tái, bụng chướng to, vùng da quanh rốn thâm đen. Kết quả xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu tăng cao, chỉ số đánh giá tình trạng viêm và nhiễm trùng rất cao, đến 56,57mg/l (ngưỡng bình thường là dưới 10mg/l). Kết quả chụp X-quang bụng cho hình ảnh tắc ruột.
Các bác sĩ Ngoại nhi được mời sang khoa Nhi sơ sinh để hội chẩn và quyết định mổ cấp cứu. Ca mổ do bác sĩ chuyên khoa I Phan Xuân Cảnh thực hiện. “Cháu bé bị vỡ ruột lúc còn trong bụng mẹ, kèm theo teo ruột. Đây là một trường hợp rất hiếm gặp”, bác sĩ Cảnh nhận định.
Sau mổ, bé không tự thở được, phải đặt nội khí quản bóp bóng gần 1 tiếng để chờ cài đặt máy trợ thở. “Khi đưa về khoa, bé vẫn li bì. Bé chỉ nặng 2,3kg mà 2 bên bụng phải mang 2 ống dẫn lưu to hơn cây bút. Chúng tôi tiến hành ủ ấm, theo dõi dịch tiết và các chỉ số sinh tồn. Những bé sau mổ thường có chế độ chăm sóc đặc biệt, phải dùng 3 loại kháng sinh chia thành 3 lần trong ngày, mỗi loại cách nhau 1 tiếng. Việc tắm rửa cũng phải hết sức tỉ mỉ, tránh chạm đến vết mổ và ống dẫn lưu”, bác sĩ điều trị của khoa Nhi sơ sinh Nguyễn Bích Phượng cho biết.
1 ngày sau mổ, bé bắt đầu “cai” máy và tự thở được. Ngày tiếp theo, các bác sĩ Ngoại nhi rút 2 ống dẫn lưu, sau đó tập ăn sữa. Đến trưa 22.10, lúc chúng tôi đến thăm, da bé đã hồng hào, cử động linh hoạt. “Nó háu ăn lắm, cứ đưa bình sữa vào miệng là “nút” cật lực. Bác sĩ dặn chỉ cho ăn 35ml mỗi 3 giờ, nên đâu dám cho ăn nhiều”, ông Huỳnh Văn Cường, ông ngoại của cháu bé, vui mừng chia sẻ.
Theo bác sĩ Phượng, với tình hình hiện tại, bé sẽ được xuất viện sau 2 ngày nữa.
Gần 75% bệnh nhi sơ sinh sau phẫu thuật được cứu sống
Khoa Nhi sơ sinh của BVĐK tỉnh được thành lập từ tháng 10.2008. Đó là dấu mốc quan trọng trong công tác chăm sóc bệnh nhi sơ sinh sau phẫu thuật. Trước khi khoa được thành lập, đa phần bệnh nhi được chăm sóc sau phẫu thuật tại khoa Hồi sức cấp cứu ngoại. Không có trang thiết bị chuyên dùng, nhân lực cũng chưa được đào tạo chuyên sâu về chăm sóc nhi sơ sinh, nên hiệu quả đạt thấp, tỉ lệ tử vong đến 80-90%.
Tỉ lệ tử vong sơ sinh tại BVĐK tỉnh năm 2003 là 13,56%, 2 năm sau giảm còn 13,42%, đến năm 2007 chỉ còn 9,99%. Sau khi khoa Nhi sơ sinh được thành lập, tỉ lệ này giảm đáng kể từ năm 2009 đến 2011, lần lượt là 6,84%, 5,7% và 5,66%. Theo bác sĩ Phạm Thiện Ngôn, năm 2012, số bệnh nhi sơ sinh mắc dị tật nặng “dồn” về khoa tăng đột biến, nhưng tỉ lệ tử vong cũng chỉ ở mức 6,93%.
Theo Trưởng khoa Nhi sơ sinh Phạm Thiện Ngôn, 3 điều kiện quan trọng quyết định thành công trong điều trị ngoại khoa nhi sơ sinh là trình độ phẫu thuật viên, gây mê hồi sức và chăm sóc hậu phẫu. 2 điều kiện đầu tiên đã đảm bảo, song điều kiện thứ 3 từng là một “khoảng trống”. “Điều trị hồi sức hậu phẫu hiện đã áp dụng cho tất cả các truờng hợp phẫu thuật trong thời kỳ sơ sinh như teo dò khí thực quản bẩm sinh, thoát vị hoành, hở thành bụng lộ tạng, thủng ruột gây nhiễm trùng nặng, thủng dạ dày bẩm sinh… Nhờ đó, tỉ lệ trẻ sau phẫu thuật được cứu sống đạt gần 75%”, bác sĩ Ngôn cho biết.
Theo Phó trưởng khoa Ngoại tổng hợp Phạm Văn Phú, điều trị thành công bệnh lý teo thực quản bẩm sinh là minh chứng cụ thể cho hiệu quả của điều trị hồi sức hậu phẫu nhi sơ sinh. “Loại phẫu thuật này đã được thực hiện tại BVĐK tỉnh từ năm 1992, nhưng cho đến năm 2008, chỉ cứu sống được… 1 ca (!). Từ 2008 đến nay, các trường hợp teo thực quản đơn thuần sau phẫu thuật đều được cứu sống, trừ những bệnh nhi đồng thời mắc các dị tật nặng khác. Một điểm đáng chú ý là kỹ thuật mổ từ trước đến giờ vẫn không thay đổi”, bác sĩ Phú phân tích.
Bác sĩ Phú thông tin thêm, để nâng cao hiệu quả chăm sóc hậu phẫu nhi sơ sinh, thời gian tới, khoa Ngoại tổng hợp sẽ bố trí bác sĩ thăm khám “sát sườn” hơn tại khoa Nhi sơ sinh. Đồng thời, phối hợp với khoa Nhi sơ sinh bố trí nơi chăm sóc riêng cho đối tượng đặc biệt này. Việc đào tạo chuyên sâu kiến thức, kỹ năng hệ ngoại cho một số điều dưỡng cũng được chú trọng để chuyên trách chăm sóc nhi sơ sinh sau phẫu thuật.
NGUYỄN VĂN TRANG