Quê hương nếu ai không nhớ…
* Tản văn của BÍCH NHÀN
Hồi đi học, tôi từng được cô giáo khen vì trả lời rất tốt câu hỏi “Lang Liêu được thần nhân báo mộng mới có ý tưởng làm bánh chưng bánh giầy, vậy thần hay Lang Liêu mới là tác giả?”. Tôi thưa, thần chỉ nói lấy lúa gạo chứ không chỉ rõ làm như thế nào, làm món gì nên Lang Liêu đích thực là tác giả. Tôi cũng từng có bài tập làm văn được điểm 9 nhờ kể về kỷ niệm một lần cùng mẹ thức canh nồi bánh chưng. Nhưng tất cả đều là nhờ tôi tưởng tượng ra. Vì sự thật là tôi không có khái niệm gói/nấu bánh chưng dù những dịp hiếu hỉ, giỗ chạp mẹ đều mua gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ. Nhưng tất cả đều là để gói bánh tét. Tôi cũng nhiều lần muốn mẹ gói bánh chưng, nhưng mẹ bảo, chúng có khác gì nhau đâu, cũng bằng ấy nguyên liệu thôi. Mẹ bận rộn nên chọn gói bánh tét. Đơn giản vì mẹ đã quen tay gói, không muốn thay đổi thói quen.
Lớn lên, xa quê lập nghiệp rồi định cư ở vùng kinh tế mới - đa phần là người phương Bắc di cư vào, hai mốt tuổi, lần đầu tiên tôi thức canh nồi bánh chưng cùng bác hàng xóm. Những dịp lễ lạt quan trọng, bác Bảy luôn gói bánh chưng. Khéo lắm. Trong Nam gần như không có lá dong, bác dùng lá chuối để gói. Xếp lá chuối vào chiếc khuôn, lá dưới đáy được gấp lại thành hình tam giác, hai chiếc lá đặt ở cạnh khuôn được xếp vuông góc, khít vào nhau. Xong phần lá chuối để định hình khuôn bánh thì lần lượt cho gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ, hành lá, phủ thêm một lớp nếp nữa rồi đặt lá chuối trên mặt gấp lại, cột dây. Thấy tôi ngồi nhìn chăm chú, bác Bảy dặn, để phòng bánh xổ ra khi luộc thì buộc thêm hai dây ngang và hai dây dọc nữa cho chắc. Muốn bánh chưng xanh, hãy gói bằng lá chuối hột, và dưới đáy nồi nên lót nhiều những chiếc lá chuối vụn. Bác Bảy xếp bánh vào nồi, đổ ngập nước và chất những cây củi to vào bếp. Bác và tôi thức châm nước cho tới khi bánh chín. Hai bác cháu ngồi bên nồi bánh chưng, cùng trò chuyện thâu đêm.
Từ lần đó, tết và kỳ giỗ nội năm nào tôi cũng gói cả bánh tét và bánh chưng; lại gọi cả con trai cùng canh lửa với mẹ, tôi chọn cách đó để dạy con về cội nguồn, về dân tộc.
Vừa rồi xuống phố, tôi tình cờ gặp thầy giáo dạy đại học của mình ở bến xe liên tỉnh. Tôi đi đón người thân, còn thầy đến nhận lá dong từ Bắc gửi vào. Tôi tò mò hỏi thì thầy kể: Ở quê thầy, Tết Nguyên đán và ngày giỗ Tổ luôn có bánh chưng, Mà thứ bánh ấy gói bằng lá dong mới đúng vị. Thầy giải thích, ngoài Bắc có thứ lá dong to - tròn - dai, mặt dưới của lá có màu xanh non, cuống lá dài và đồng màu với gân lá. Gói bánh chưng bằng lá dong màu bánh sẽ xanh tự nhiên, đẹp mắt, đặc biệt bánh sẽ có vị thơm đặc trưng sau khi được luộc chín. Tôi biết đồng bào ngoài Bắc hay gói bánh chưng hơn bánh tét và gần như chỉ gói bằng lá dong. Tôi cũng biết những đặc tính của lá dong và ưu điểm của bánh chưng gói bằng lá dong. Nhưng nghe thầy kể say sưa, tôi nghe như người lần đầu được nghe về thứ bánh Lang Liêu vậy. Tôi biết sự tích bánh chưng bánh giầy từ hồi còn học mẫu giáo nhưng có lẽ phải đến ba mươi tuổi tôi mới hiểu hết ý nghĩa của món bánh cổ truyền khi nghe người thầy quê gốc Phú Thọ miên man kể.
Tất cả những đứa con xa quê luôn đau đáu về quê. Và câu chuyện bánh chưng gói bằng lá dong phải chăng là một góc của nỗi nhớ quê; là cách để thầy dẫn dắt nỗi nhớ vào những mạch nguồn tâm hồn căng tràn, vào từng mao mạch, từng tế bào da thịt để tình cảm với nơi chôn nhau cắt rốn luôn đi cùng nhịp tim đập mỗi khoảnh khắc? Lại nghĩ người xa quê hương đến vạn dặm ắt hẳn sẽ đau đáu biết đến nhường nào.
Tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm với tổ tiên, cội nguồn, mới nghe qua tưởng chừng như đó là lý thuyết, là xa vời to tát. Nhưng không phải đâu, nó đơn giản, mộc mạc lắm, vì lẽ tất cả mọi điều thiêng liêng đều giản dị. Mẹ tôi đã cho tôi hiểu bánh tét cũng là món bánh thuần Việt. Và bác Bảy hàng xóm khởi thêm cho tôi một dòng chảy nữa về phía cội nguồn. Và thầy tôi đã đưa tình yêu quê hương xứ sở lên tầng nấc cao hơn. Tất cả cho tôi hiểu rằng, tình yêu quê hương thì không bao giờ có giới hạn, nó muôn hình muôn vẻ và như một nhà thơ đã viết “quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.