Ông, Cha và Tôi
Truyện ngắn của MAI LINH GIANG
Cha tôi ra đời trong chiến tranh. 7 năm sau ông bà tôi mới làm đám cưới.
Tôi sinh ra và lớn lên trong hòa bình!
Ông tôi, một trong số bao người đã đổ máu để góp phần làm nên đất nước hòa bình hôm nay.
Hai cha con tôi vẫn thường nói đùa “nếu ông không “nhảy núi” chắc gì đã gặp bà để có chúng tôi!”. Mỗi lần nghe như vậy ông cười rất tươi. Có lẽ đó là dịp để ông nhớ lại câu chuyện tình hy hữu của mình khởi đầu vào ngày mùng Một Tết Mậu Thân - 1968.
* * *
... Giao thừa năm ấy, trung đội bộ đội địa phương do ông chỉ huy dẫn đường quân chủ lực tiến vào TX Quy Nhơn. Chênh lệch lực lượng quá lớn, lại chưa quen tác chiến trong đô thị, trung đội của ông lạc nhau thành mấy nhóm, ông bị thương trên đường rút lui, đang lúc cận kề sống chết thì bà bất ngờ xuất hiện.
Còn bà, mười lần như một, với câu mở đầu vừa thật vừa đùa bà kể về lần gặp gỡ định mệnh ấy: “Trước khi gặp ổng, bà nghe người ta nói "cộng sản ốm như ma đói, bảy thằng đu tàu đu đủ không gãy!". Họ nói thì nghe vậy, chứ đâu biết thực hư thế nào! Đến khi gặp ông thì bà mới biết không phải vậy. Bay có thấy ông bay đẹp trai thua gì tài tử xi-nê”.
Đêm 30 Tết Mậu Thân - 1968, khi tiếng nổ đì đùng - mà ban đầu nhiều người lầm tưởng là tiếng pháo giao thừa - mỗi lúc một thêm phần bất thường, bà tò mò mở cửa nhà sau xem chuyện gì xảy ra bên ngoài. Đập vào mắt bà lúc ấy là một người đàn ông đang nép mình trong con hẻm nhỏ. Hốt hoảng, bà vội vàng đóng cửa thì nghe người ấy gọi nhỏ: “Cô ơi! Làm ơn chỉ giúp lối ra đầm Thị Nại!”. Tình huống thật bất ngờ nhưng không hiểu sao bà mở cửa liền! Thấy ông tay ôm súng, tay vịn tường bước đi loạng choạng, bà bước nhanh ra dìu ông vào nhà.
Ông ở lại trong nhà thấm thoắt đã cả tháng. Cả tháng nhưng ông chỉ tiếp xúc với bà và cũng chỉ mình bà âm thầm chăm sóc cho ông. Nhiều lần, ông tỏ ý lo sợ hàng xóm phát hiện thì sẽ phiền lụy cho bà và gia đình. Nghe ông nói, bà nhẹ nhàng: “Anh khỏi lo. Trời có sập thì em cũng chống được!”. Ông cười và nỗi lo sợ bỗng dưng tan biến. Còn bà, nói vậy để ông yên tâm chứ lòng thì phập phồng không yên. Những trăn trở chung - riêng đã kéo hai người ngày càng gần nhau hơn và rồi cái gì đến cũng phải đến - họ yêu nhau.
Vết thương rồi cũng dần bình phục và ông đã trở lại là một người khỏe mạnh, có đôi mắt sáng, nụ cười hiền hiền, bẽn lẽn như con gái. Một hôm, trong lúc bà thay băng, ông ngập ngừng nói: “Anh phải về đơn vị. Em ráng chờ anh nhé, nhất định anh sẽ về với em!”. Như biết trước điều đó sẽ xảy ra nên bà im lặng giấu nỗi buồn vào bờ vai ông. Những giọt nước mắt của bà thấm qua vai áo lắng vào tim ông đến lặng người. Ngày ly biệt, ông ôm chặt bà trong vòng tay, khẽ thầm thì “Anh yêu em” rồi băng mình vào bóng đêm. Bà ở lại với nỗi buồn quay quắt nhưng cảm thấy an ủi phần nào khi giọt máu của ông để lại mỗi ngày cứ lớn dần trong bụng cùng hy vọng về ngày đoàn tụ không xa.
Tháng 3.1975, thị xã nhốn nháo chuyện đi - ở khi tiếng súng mỗi lúc một gần hơn. Người thân của bà tôi cũng đùm túm nhau theo đoàn người rời thị xã. Bà không đi. Ai nói gì cũng không chịu đi! Cứ chiều muộn bà lại dẫn cha tôi ra phía bờ đầm Thị Nại. Bà chờ đợi trong sự hồi hộp, lo lắng và hy vọng... Và đêm 31.3, bất chấp thỉnh thoảng từng loạt đạn lại nổ cấp tập, đạn lửa rạch ngang dọc bầu trời đêm, bà tôi vẫn để ngỏ khung cửa nhỏ phía sau nhà. Quá nửa đêm bà giật mình choàng tỉnh, ở phía bàn nước một người đàn ông đang âu yếm nhìn hai mẹ con không chớp mắt. “Anh!”- bà nghẹn ngào ngã vào lòng người đàn ông áo quần còn vương mùi thuốc súng...
Bà tôi nói, đám cưới ông bà lạ lắm, khách được đãi bánh ngọt, nước trà và quà mừng chỉ là những bộ bình trà, chục chén ăn cơm hay chiếc chậu men xanh màu nước biển. Và còn lạ hơn, đứng giữa cô dâu chú rể là thằng cu 7 tuổi - ba tôi!
Xuất thân nông thôn, học hành dở dang đã lên đường chiến đấu nên ông tôi nói mình chỉ rành hai việc, đánh giặc và làm ruộng. Rời quân ngũ ông chuyển về công tác tại Ty Nông nghiệp. Là cán bộ quân đội cấp tiểu đoàn, từng được khen thưởng nhiều huân, huy chương các loại, ông có cơ hội cho một vị trí lãnh đạo nhưng ông lại chọn làm công việc chuyên môn để được lội ruộng cùng bà con.
Ông đau lòng khi thấy bà con đưa ruộng vào hợp tác xã mà giống như đem con bỏ chợ. Thấy nước tràn bờ họ không đắp lại; thấy trâu bò dẫm đạp lúa họ không ngăn. Những lúc như vậy ông lại nhớ đến câu “Cha chung không ai khóc” và thấm thía hơn thâm ý người xưa. Vì vậy, khi ruộng đất được khoán lại cho nông dân, có lẽ ông tôi là một trong những người vui mừng nhất. Ông làm việc không kể ngày đêm vì mong được góp phần thúc đẩy chủ trương đó sớm đi vào cuộc sống.
Cha tôi lớn lên trong hòa bình, được ăn học và trở thành kỹ sư nông nghiệp. Mỗi lần ông và cha trò chuyện, tôi thường đứng hóng bên cạnh nên nhiều lần nghe và nhớ nằm lòng câu nói của ông: “Vẫn biết người xưa nói không sai - phi thương bất phú! Nhưng xứ mình người làm ruộng nhiều lắm, nên giúp nông dân làm giàu từ đồng ruộng là cách trả ơn đời ý nghĩa nhất con à!”. Lần nào cũng vậy, nghe câu nói đó, cha tôi luôn nhìn ông, mắt long lanh, rạng ngời và tiếng “dạ” của cha tôi ấm áp, ngọt ngào, thể hiện rõ sự tự tin mãnh liệt. Có lẽ, nhờ cái máu nông dân của ông truyền cho nên cha tôi cũng mải mê, trăn trở với ruộng đồng để góp phần làm nên những cánh đồng trù phú trên quê hương.
Còn với tôi, ông nội là một biểu tượng của tình yêu quê hương. Năm lớp 12, có lần nghe ông nói: “Đường sá nông thôn còn tệ quá thì làm sao mà phát triển sản xuất, nâng cao đời sống để tiến lên hiện đại hóa!”, tôi đã ôm lấy ông và nói: “Nội ơi! Lớn lên con sẽ làm kỹ sư cầu đường nghe nội!”. Nghe vậy ông im lặng vỗ nhẹ vai tôi âu yếm. Lúc đó, tôi cảm nhận từ sâu thẳm trong lòng ông đang dâng lên niềm vui và sự kỳ vọng ở tương lai.
Sau đó là những năm tháng học đại học. Tôi đã lấy được tấm bằng kỹ sư cầu đường loại giỏi như đã hứa với ông nội. Khi ra trường, tôi được công ty xây dựng cầu đường nơi tôi đã thực tập mời về làm việc với mức lương khá tốt. Đọc đi, đọc lại thư mời, mấy hôm sau tôi mới gửi email trả lời. Thay vì gọi điện cho cha, tôi gọi cho nội nói: “Con về quê làm việc nha nội”. Nội lặng đi một lúc rồi nói, giọng nghèn nghẹn: “Nội cảm ơn con nhiều lắm!”.
M.L.G