Mùa tôm
Tạp bút của Trần Thị Thắm
Tôi sinh ra, lớn lên ở một miền quê ven đầm Thị Nại, quanh năm người dân sống bằng nghề nuôi tôm. Bởi vậy ngay từ nhỏ, tôi đã được ba mẹ dẫn ra chòi tôm chơi, ký ức về đầm tôm nước mặn cũng từ đó theo chân tôi suốt chặng đường dài.
Nhớ lúc nhỏ, tôi hay theo mẹ mang cơm cho ba, đường từ nhà ra ao tôm khá xa, đi bộ hết con đường đất lầy lội, bùn sình, lại đến một quãng sông rộng. Mẹ chèo sõng để qua sông. Tôi còn nhớ như in cảnh vật ở hai bên bờ sông, những chùm hoa tra đến mùa trổ bông vàng rực rỡ, rụng rơi dưới làn nước mênh mông, bềnh bồng theo làn sóng. Tiếng gió vi vu, hòa cùng tiếng chim hót lảnh lót đậu trên những nhánh bần nước, tất cả tạo nên một bức tranh quê dân giã, yên bình mà cũng đầy thơ mộng.
Tôm. Tranh của Tề Bạch Thạch
Trong khi tôi đang đắm chìm vào cỏ cây xanh biếc, thì chợt nghe tiếng nhắc nhở của mẹ: “Vịn chặt vào con!”. Mẹ lo tôi mải nhìn hoa, nhìn trời mà ngồi không vững trên thanh gỗ vắt ngang thân sõng. Xuôi dòng hết một đoạn sông là đến chòi tôm nhà tôi. Nhìn về phía đầm tôm, tôi thấy thấp thoáng dáng người gầy hao của ba đang ngồi trên chiếc cầu ao xem nhá (một vật dụng giống cái vó nhưng nhỏ hơn, để theo dõi sức ăn của tôm). Thấy mẹ và tôi bơi sõng qua, ba vội vã ra bến cắm chặt sào để neo sõng, đỡ tôi bước lên bờ, rồi ba xách giỏ cơm giúp mẹ. Nhìn mẹ con tôi, khuôn mặt ba ánh lên niềm vui, dường như bao nỗi nhọc nhằn chợt tan biến hết. Bây giờ ngồi viết lại ký ức tôi thấy ngay tấm lưng cha nhễ nhại mồ hôi, mái tóc rối bạc phếch gió sương, gót chân chằng chịt những vết nứt nẻ, lòng bỗng trào dâng niềm xót xa.
Sau mấy đợt thay nước cho ao tôm, khoảng 3 tháng từ ngày thả tôm giống là có thể thu hoạch. Trước khi thu hoạch, ba thường lặn xuống đáy để quan sát lượng tôm nhiều ít, dày thưa thế nào, rồi tìm người kéo lưới. Vì ao tôm nhà tôi nhỏ, nên ba mẹ thường kéo lưới vào buổi sáng sớm, đến trưa là xong. Ngày trước đó, mẹ tôi sẽ hẹn người đến ao nuôi để mua, có năm tôm được mùa, mà giá lại thấp, có năm thì ngược lại. Một năm hai vụ, ba mẹ tôi đặt tất cả kỳ vọng vào ao nuôi. Ngày thu hoạch, nhìn những con tôm chắc mẩy, bóng loáng, búng lách tách trong những cái giỏ mây, thúng, mủng, tôi thấy ánh mắt ba mẹ ngời ngợi niềm vui, niềm hạnh phúc.
Nhưng nuôi tôm là một việc chưa bao giờ đơn giản. Vì tôm rất dễ mắc bệnh, bỏ ăn, chúng lại sống dưới mặt nước nên cũng hạn chế việc quan sát của người nuôi. Những ngày nắng ấm, trời trong, màu nước hồ xanh biếc, tôm sẽ ăn mạnh, chóng lớn. Nếu mưa nhiều đúng vào vụ tôm, sẽ là một bất lợi, những ngày đó, ba mẹ tôi chỉ nhìn mưa mà thở dài mong trời mau hửng nắng. Có năm tôm bị bệnh khắp cả đầm tôm, mới ngày hôm trước, ba chỉ thấy lác đác một, hai con có biểu hiện khác thường, ba đợi để quan sát, theo dõi. Sáng hôm sau, thức dậy thấy tôm nổi trắng cả ao nuôi, năm đó, gia đình tôi mất trắng. Mắt mẹ hoe hoe đỏ, còn ba ngồi lặng thinh hút thuốc. Tôi biết lòng ba mẹ lúc ấy như có ai sát muối. Bấp bênh, vất vả là vậy, mà tôi có nghe ba mẹ thở than bao giờ.
Thương đến thắt lòng những tháng ngày ba vất vả, mẹ tảo tần ngày nắng, ngày mưa. Để chị em tôi được chắc bước đến trường cùng bè bạn, ba, mẹ tôi đã phải hy sinh rất nhiều. Một đôi lần tôi tâm sự với bè bạn chuyện này, có bạn cũng thủ thỉ chia sẻ lại với tôi. Nhưng cũng có một số ngạc nhiên cho rằng ba mẹ nào chả thế; hình như với các bạn này hy sinh là lẽ đương nhiên và đương nhiên không kém là việc mình nhận phần thuận lợi ấy. Tôi nhớ là tôi đã nghẹn ngào đến mức nào khi gọi sự đương nhiên ấy là vô ơn. Chỉ là trẻ con thôi nhưng tôi và những bạn ấy không bao giờ có thể thân thiết được.
Mấy mùa qua, vùng tôm quê tôi đã ít dịch bệnh bởi người nuôi tôm đã chịu thân thiện với môi trường. Trong ký ức của tôi, ao tôm chiếm một vị trí rất quan trọng. Trải qua bao gian khó, tôi học được bài học về tình yêu thương, sát cánh bên nhau cùng vượt qua thử thách, về đức tính cần cù, chịu khó của ba mẹ.