Từ đợt giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đảm bảo chất lượng và chương trình sách giáo khoa:
Cả giáo viên và học sinh cùng bị làm khó
Đợt giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đảm bảo chất lượng và chương trình sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh, do Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tiến hành, đã ghi nhận rất nhiều bất cập, trong đó nổi lên là những bất hợp lý của SGK đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy-học.
Nặng nề, ôm đồm và quá tải
Theo phản ánh của các địa phương, SGK của cấp tiểu học, THCS, THPT đều đang có “sạn”. Ông Dương Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Mỹ Phong (huyện Phù Mỹ), cho biết: “Sách Học vần lớp 1 tập 2, từ trang 22 đến trang 36, phần thực hành quy định: trong 9-10 phút học sinh (HS) phải viết gần 2 trang với nhiều mẫu chữ là quá nặng. Tương tự, các bài đọc trong tiết Tập đọc - Kể chuyện lớp 2 và lớp 3 quá dài, chỉ có 1 tiết thì xoay sở kiểu gì cũng không tốt được. Môn Toán lớp 2 có nhiều bài nặng về lý thuyết mà rất ít bài củng cố, thực hành kiến thức đi kèm, chẳng hạn từ bài 132 đến bài 139 (8 bài) chỉ có một bài luyện tập. Nặng nề nhất là chương trình Toán 4, nội dung kiến thức quá nhiều, quá khó lại quá ít tiết luyện tập, thực hành”.
Ở cấp THCS, ông Đặng Trung Khánh, Hiệu trưởng Trường THCS thị trấn Phù Mỹ (huyện Phù Mỹ), khẳng định - SGK đang “làm khó” giáo viên và HS rất nhiều. Ông Khánh dẫn chứng: “Ở môn Toán, nhiều định lý, hệ quả trước đây được đưa hẳn vào nội dung bài học thì hiện được giới thiệu dưới dạng bài tập. HS không thể vận dụng để giải các bài toán có liên quan vì chưa có quy ước nào cho phép được xem kết quả chứng minh của một bài toán như là định lý, hệ quả được mặc nhiên sử dụng. Không ít kiến thức lâu nay được xem là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng, hình thành hoặc tiếp thu các kiến thức quan trọng sau đó thì chương trình giảm tải (được thực hiện từ năm học 2011-2012) lại cắt bỏ đi. Chẳng hạn, môn Hóa 8 không dạy bài “Phản ứng oxy hóa khử” nhưng bài 31 “Tính chất ứng dụng của Hydro” thì lại nhắc đến nội dung kiến thức này, như thế làm sao HS hiểu...”.
Với cấp THPT, một số giáo viên cho rằng, nhiều kiến thức không có tính cập nhật; một số thuật ngữ trong phân môn làm văn và tiếng Việt không có sự thống nhất liên tục từ cấp 2 lên cấp 3. SGK Lịch sử lớp 10 (chương trình cơ bản) phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX: phần kinh tế, văn hóa, giáo dục... bị trùng lắp. Nội dung kiến thức SGK môn Hóa hơi nặng so với bậc THPT. Môn Vật lý nhiều kiến thức xa rời thực tế, nặng tính nghiên cứu, hàn lâm. Môn Toán trong chương trình Giải tích lớp 12 có phần khảo sát hàm số và vẽ đồ thị với hàm đa thức nhưng SGK cơ bản lại giảm tải bài xác định điểm uốn và tính lồi, lõm của đồ thị hàm số. Môn tiếng Anh đưa nhiều yếu tố văn hóa xa lạ với HS Việt Nam và không phù hợp với thực tiễn...
Trông chờ vào sự thay đổi
“Kết quả đợt giám sát đã cho thấy rõ, thầy và trò các trường phổ thông trong tỉnh đang rất “khó”, “khổ” với chương trình trong SGK ”
Từ thực tế tình hình dạy-học của đơn vị, các trường, phòng GD&ĐT đã đề xuất, kiến nghị những biện pháp tháo gỡ khó khăn. Ông Lê Văn Khôi, Hiệu trưởng Trường Phổ thông DTNT Vĩnh Thạnh (huyện Vĩnh Thạnh), đề xuất, cần mềm hóa nội dung giảng dạy các môn học để phù hợp với nhận thức của đối tượng HS là người dân tộc thiểu số. Ông Khôi nói: “Cấu trúc, nội dung SGK phải bảo đảm tính chỉnh thể, linh hoạt, thống nhất và cần thiết tính đến yếu tố đặc thù vùng miền. Cần điều chỉnh một phần lượng kiến thức đối với một số môn học để phù hợp hơn với HS miền núi, học sinh đồng bào dân tộc thiểu số. Cũng cần có sự đồng bộ giữa bộ chuẩn kiến thức kỹ năng với SGK”.
Nhiều giáo viên THCS có chung suy nghĩ, cần điều chỉnh SGK có tính thực tiễn hơn, phù hợp với tính đa dạng của các loại hình, đối tượng học. Ông Dương Văn Minh cho biết: “SGK tiếng Anh từ lớp 6 đến lớp 9 không có phần nào yêu cầu dạy luyện đọc, luyện phát âm cho HS. Lâu nay, khả năng này của HS THCS tốt hay không phụ thuộc hoàn toàn vào... giáo viên. Những giáo viên non nghề SGK yêu cầu gì dạy nấy, thường quên mất phần này. Kết quả là HS lên lớp 9 không nói được, trong khi giao tiếp bằng tiếng Anh đang trở thành một kỹ năng rất quan trọng, HS cần rèn luyện càng sớm càng tốt”.
Việc đang có hai bộ SGK THPT (dành cho chương trình nâng cao và chương trình cơ bản), phần lớn giáo viên THPT cho rằng không cần thiết. Ông Võ Công Trí, Tổ trưởng Tổ Ngữ văn Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn (TP Quy Nhơn) đề xuất: “Nên thống nhất trên cả nước một bộ SGK chuẩn, cùng một chương trình và có thể xuất bản nhiều bộ sách tham khảo. Cần hoàn chỉnh phần giảm tải và chuẩn kiến thức, bởi HS học chương trình SGK chuẩn gặp nhiều khó khăn khi thi đại học vì đề thi đại học của Bộ GD&ĐT yêu cầu rất cao”.
Kết quả đợt giám sát đã cho thấy rõ, thầy và trò các trường phổ thông trong tỉnh đang rất “khó”, “khổ” với chương trình trong SGK. Chờ đợi một sự thay đổi, chuyển biến về nội dung, chương trình trong SGK toàn cục cả nước từ Bộ GD&ĐT là điều các trường đang trông mong nhưng chắc chắn sẽ không thể có ngay, trong khi việc dạy-học diễn ra hàng ngày. Trong thời gian chờ đợi những thay đổi hợp lý hơn, Sở GD&ĐT cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi giúp các trường “vượt khó”, hoàn thành nhiệm vụ dạy-học một cách xuất sắc.
NGỌC TÚ