Phải kiểm soát được việc xả lũ
Do cả thiên tai lẫn nhân tai
TS Tô Văn Trường (Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước KC08/11-15 Bộ Khoa học - công nghệ):
- Năm ngoái, miền Trung và Tây nguyên ít mưa, bị khô hạn nên năm nay các hồ chứa đều quan tâm đến việc tích nước. Năm nay, ba cơn bão liên tiếp số 13, 14 và 15 gây ra mưa lớn liên tục trên diện rộng. Trong khi đó các hồ chứa thủy điện chỉ có Vu Gia - Thu Bồn và Sông Ba (kể cả Sesan Tây nguyên) là có quy trình vận hành liên hồ chứa, còn hầu hết các đập thủy điện chỉ có quy trình vận hành đơn lẻ, không có dung tích phòng lũ. Công tác dự báo chỉ đảm bảo độ chính xác khoảng 65% (trước 12-24 giờ), điều này dẫn đến việc xả lũ đồng loạt của các đập thủy điện gây ra lũ lớn cho hạ du. Có thể nói lũ lớn năm nay là do cả thiên tai lẫn nhân tai.
* Nếu nói về nhân tai thì nhiều người cho rằng thủy điện là thủ phạm gây lũ lớn...
- Theo thống kê, ở Tây nguyên diện tích rừng bị mất do làm thủy điện, thủy lợi trung bình 14,5 ha/MW, khoảng 16,5 ha/MW ở lưu vực sông Đồng Nai. Lời nguyền tài nguyên có câu “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, đó là cái giá phải trả do đối xử tệ hại với môi trường sinh thái tự nhiên. Ngoài nguyên nhân do lâm tặc hoành hành, việc phát triển thủy điện tràn lan, tàn phá rừng đầu nguồn kể cả vườn quốc gia cũng là tác nhân gây nên các hiện tượng lũ quét, lũ ống, sạt lở núi đồi...
* Trong các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án thủy điện đều có cam kết điều hòa về lũ nhưng thực tế thì không phải như vậy?
- Do đặc thù địa hình, thủy thế của miền Trung, các dự án thủy điện không có khả năng cắt lũ như ở lưu vực sông Hồng. Khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, các tài liệu điều tra cơ bản cho biết việc đánh giá hầu như rất ít, khi đánh giá chủ yếu mượn từ các lưu vực tương tự. Đánh giá chỉ là công cụ hỗ trợ cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư trên cơ sở phân tích được mất. Theo quy định, báo cáo đánh giá tác động môi trường phải được phê duyệt trước khi quyết định đầu tư, nhưng theo tôi, có không ít trường hợp cơ quan quản lý môi trường phải “bẻ ghi” vì một lợi ích nhóm nào đó.
Người dân cần được giám sát việc xả lũ
Bà Ngụy Thị Khanh (giám đốc Trung tâm Sáng tạo & phát triển xanh - GreenID):
- Các chủ đầu tư bắt đầu làm các dự án thủy điện chỉ tính đến việc phát điện, dù trong đánh giá tác động môi trường có đề xuất làm công trình đa mục tiêu nhưng thật ra họ chỉ quan tâm và chú trọng về mục tiêu phát điện, bởi vậy các thủy điện đều tích trữ nước để đảm bảo việc phát điện. Rừng thì phá đi nhiều nhưng tỉ lệ trồng lại rất thấp. Khi trời mưa, có bao nhiêu nước đều trút xuống dưới hồ, trong khi hồ nước ấy đầy rồi thì thủy điện không thể không xả nước, dù điều ấy rất nguy hiểm cho cộng đồng ở hạ nguồn.
Cần nhất hiện nay là cách kiểm soát mực nước vì mùa mưa chính là mùa giữ nước để phát điện. Và để quản lý, kiểm soát việc xả lũ, nếu vẫn để các nhà đầu tư tự xử lý thì cư dân phía hạ nguồn không còn có giải pháp nào để phòng chống lũ lụt cả, thậm chí các nhà khoa học cũng không thể nào đưa ra được giải pháp cho tình trạng này.
* Theo bà, có giải pháp nào cụ thể để giải quyết được vấn đề trước mắt không?
- Trước khi xây dựng thủy điện thì nhà đầu tư đều báo cáo trên giấy tờ là có điều tiết lũ, nhưng thực tế các thủy điện miền Trung đều không có hệ thống điều tiết lũ nên bây giờ phải xử lý ngay đoạn này. Theo tôi, phải rà soát lại toàn bộ quy trình của thủy điện để đưa ra mức tích nước, thủy điện không có diện tích để phòng lũ thì không thể có biện pháp cắt lũ. Cùng với việc này là phải cho địa phương và nhân dân trong vùng giám sát việc xả lũ của thủy điện. Bởi mỗi khi xả lũ nhà đầu tư chỉ cần báo cho chính quyền, còn chính quyền báo cho người dân thì rất lâu.
Thủy điện cần có trách nhiệm với dân
Trao đổi với Tuổi Trẻ về tình hình lũ ở miền Trung và mối liên hệ với việc các thủy điện xả lũ, PGS.TSKH Phan Văn Quýnh - Đại học Quốc gia Hà Nội, người tham gia khảo sát thủy điện Sơn La - cho biết một đặc điểm rất quan trọng là thủy điện miền Trung có dung tích hồ chứa nhỏ, khả năng giữ nước kém, mưa to là phải xả. Không đồng tình quan điểm cho rằng thủy điện chỉ xả nước bằng với lưu lượng nước về nên không làm tăng lũ, ông Quýnh cho rằng vấn đề là thủy điện tích nước ở một chỗ, trên cao, đến khi mưa lũ, không chỉ một thủy điện, mà nhiều thủy điện cùng xả khiến tăng lũ cho hạ du, nhất là lũ lên rất nhanh, một giờ có thể lên mấy mét, người dân khó có thể ứng phó kịp.
Về giải pháp, theo ông Quýnh, thủy điện thì xây rồi, vấn đề cần làm là thủy điện phải có cơ chế hỗ trợ người dân ở hạ du giảm nhẹ thiệt hại. Lũ là bất khả kháng, nhưng thủy điện cũng phải sòng phẳng với dân. Ông Phan Văn Quýnh đề nghị nên tính đến phương án hỗ trợ dân xây nhà hai tầng, bởi nếu khi có lũ, chắc chắn thiệt hại sẽ giảm.
TS Cao Đình Triều, Hội Khoa học kỹ thuật địa lý VN (Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN), cũng cho rằng lý do quan trọng khiến lũ ở miền Trung lên rất nhanh là do thủy điện. Nếu không có thủy điện, có thể vẫn có lũ, nhưng thủy điện tích nước, lúc xả thì lũ về mạnh rồi. Theo ông Triều, điều quan trọng là cần phải tính toán được lượng mưa hằng năm để trước các đợt mưa bão, phải yêu cầu thủy điện xả ngay trước lúc có mưa.
. Theo TTO