Quà quê
* Tản văn của ĐẶNG ĐỨC PHÁNH
Không phải bây giờ đời sống khá hơn một chút rồi cứ hay nhớ nghĩ về quê kiểng rồi than nghèo kể khổ, với tôi, nhưng món ăn quê luôn thơm đằm hương vị ký ức, ngọt bùi với kỷ niệm thời thơ ấu. Không phải riêng tôi đâu mà bạn bè cùng trang lứa trong xóm, ngoài làng đều hay nhớ tới những là khoai mì luộc, bánh củ mì nhân đỗ mèo, chuối luộc, khoai nướng, bắp nướng… Những món ăn của buổi sáng mai ấm lòng, lúc lưng lửng chiều chắc dạ hay sực ấm cả lòng bàn tay những ngày đông lạnh giá.
Đài báo ngoài Nẫu đang trở lạnh, không dưng lại có cảm giác như bản tin thời tiết đang nhắc đến món khoai mì mới dỡ. Quê tôi hay bị trêu là xứ củ mì mà. Tôi nhớ rất rõ nhà có hai thửa ruộng đất đồi, mẹ tôi dành một phần để trồng mì gòn. Tầm tháng mười, mười một, khi trời chuyển mùa, cả vạt mì rụng lá gần hết để lộ ra những thân cây mì gầy. Có gốc khỏe còn chồm củ lên trên vồng đất. Mẹ dậy sớm, mang cuốc ra vườn khơi đất nơi cho dễ nhổ. Đất đồi mùa này khô lạnh và cứng, không dễ nhổ đã đành, mà cũng cần phải khơi mềm để đỡ mất công tìm những khúc củ gãy, lạc lại trong đất. Mẹ nhổ mì vào chiều hôm trước, sáng hôm sau chị em tôi có ăn sáng đi học. Củ mì gòn rất dễ bóc vỏ, tách một khe dọc là róc được cả củ, luộc chín ăn rất bở bột. Bốn chị em tôi rời bàn học cũng là lúc nồi củ mì luộc của mẹ đang rúc trên bếp tỏa một mùi thơm quen thuộc. Ấu thơ của chị em tôi với mẹ là vậy, lần nào kể cũng thấy sống mũi cay cay, nhớ hơi ấm tỏa lan từ nụ cười của mẹ.
Không chỉ có món củ mì luộc, mẹ tôi còn hay làm cả món bánh mì nhân đỗ mèo. Củ mì đã bóc vỏ, băm từng lát rồi đem phơi nhờ trên mái ngói nhà hàng xóm, phơi nơi bờ ao dậy nắng. Mì phơi được ba bốn nắng là mẹ cho vào cối đá giã nhỏ rồi đem rây bột. Mẹ tôi làm món bánh mì nhân đỗ mèo rất khéo. Bột mì sau khi được giã nát, rây mịn, mẹ ngào với nước lạnh tạo thành một khối bột dẻo quánh, véo ra thành từng miếng nhỏ rồi nặn. Rồi đến đỗ mèo nữa. Còn ai nhớ đến loại đỗ này không nhỉ? Quả đỗ mèo giống đậu ngự nhưng bé hơn và rẻ tiền lắm nên ít người giồng, ai có trồng cũng chỉ để tương. Nhưng mẹ tôi thì khác…
Quả đỗ mèo sau khi ngâm trong nước, mẹ đem luộc chín, đãi bỏ vỏ, cho vào cối đá lấy chày nghiền mịn, trộn một ít muối trắng, nếu có hành lá, thêm chút mỡ lợn thì món nhân càng thêm ngon. Bánh nặn xong, mẹ thường cuốn một ít lá chuối khi xếp vào chõ để bánh không bị dính vào nhau. Món bánh mì nhân đỗ mèo tuy làm tốn công nhưng bù lại ăn rất ngon mà mấy chị em tôi đứa nào cũng thích. Mỗi buổi chiều đi làm đồng, trước bữa cơm nhấm nháp mấy chiếc bánh ấy thì chẳng gì ngon bằng. Thức ăn của nhà nghèo nhưng lạ vị khiến một vài lần bọn bạn tôi cứ nằn nì được ăn ké với!
Lại còn món chuối luộc nữa. Ngày đó ít khi có chuối để đến chín cây như bây giờ, tất nhiên trừ những khi cần chuối chín cây, còn lại đều cắt buồng khi vừa già để bán cho được giá. Nhưng bầy trẻ thích thì mẹ vẫn chiều. Chuối đã căng trái, vừa chớm ửng, bắt đầu có vị ngọt nhưng vỏ vẫn còn xanh là đúng tầm để cắt xuống đem luộc hoặc cho vào chõ mà hấp cả nải. Ngang chiều mùa đông, gặp ngày mưa dầm hoặc gió cắt, được ngồi quây quần bên bếp lửa ăn món chuối luộc chấm muối mè, mẹ con rủ rỉ rù rì trò chuyện không gì có thể sung sướng hơn.
Mẹ tôi thường bảo, quà quê mang đậm một cái tình khiến những người lớn lên từ đồng đất quê mùa chẳng thể nào quên được. Nhớ lắm từng làn khói bếp mỗi buổi chiều hôm, nhớ hương thơm nghi ngút của nồi mì luộc và nhớ vị béo bùi của lọ muối mè giã nhỏ… Cuộc sống ngày xưa bao nhiêu khó khăn là thế, vậy mà ấm áp tình người, tình quê hương, nó giống như hương vị của từng món ăn quê quen thuộc. Tôi hay nhắc chuyện với các con không phải để kể nghèo than khổ, tôi muốn tâm tình với chúng rằng muốn vượt qua cái thời gian khó ấy nếu không nhất mực yêu thương con mình như ông bà cha mẹ xa xưa thì hôm nay từng món quà quê không thể trở về vẹn nguyên trong ký ức như tôi đang kể!
Quà quê cũng là một phần tình cảm, một phần máu thịt trong tôi!