Nghi thức cúng tất niên dưới triều Nguyễn
Tất niên theo chữ Hán có nghĩa là kết thúc một năm, chuẩn bị bước sang năm mới. Cách đây hơn 200 năm triều Nguyễn rất coi trọng và chuẩn bị kỹ càng cho ngày lễ quan trọng này.
Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 187, mặt khắc 38, 39 ghi chép về việc vua Minh Mạng lấy ngày 15 tháng 12 âm lịch làm ngày cúng tất niên. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Dưới triều Nguyễn, lễ cúng tất niên không có ngày cố định, mỗi vị vua lại chọn một ngày khác nhau. Năm Mậu Thìn (1808), vua Gia Long quyết định lấy ngày 14 tháng Chạp làm ngày cúng tất niên, Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 36, mặt khắc 18, cho biết: “Chuẩn định mỗi năm cứ ngày mồng 7 tháng giêng thì khai ấn, sai quan xuất binh, ngày 13 tháng chạp yết lăng, 14 tế Chạp, 25 khóa ấn. Lấy sang năm là năm Kỷ Tỵ bắt đầu”.
Đến đời vua Minh Mạng lại chọn ngày 15 tháng Chạp. Đến đời vua Thiệu Trị lại quyết định lấy ngày cuối năm làm lễ cúng tất niên. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ, quyển 53, mặt khắc 21, 22 khắc ghi lời dụ của vua như sau: “Hằng năm, tháng chạp làm lễ “tuế trừ” (tháng đủ, vào ngày 30; tháng thiếu vào ngày 29); trước khi ấy, Tôn nhân phủ hội đồng với bộ Lễ dâng sớ xin cho hoàng tử, hoàng thân được sung kiêm việc tế, cứ theo lệ tư sang”.
Kể từ triều vua Tự Đức thì vào ngày 22 tháng 12 âm lịch hàng năm, hoàng cung sẽ tiến hành cúng tất niên. Những nghi thức, mâm cỗ cúng tất niên được triều đình ấn định trong sách hướng dẫn nghi lễ, thường được gọi là sách “hội điển sự lệ”. Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 237, mặt khắc 19, 20 ghi lại cực kỳ chi tiết về mâm cỗ cúng tất niên của vương triều: “Lễ tuế trừ dâng lên: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, mỗi miếu cỗ nấu hạng nhất 1 mâm, nem hạng nhất 20 gói (mỗi gói trị giá tiền 40 đồng), bánh chưng hạng nhất 4 đôi, mỗi đôi phải mua đậu xanh, mỡ lợn các vị (tiền 6 tiền 21 đồng). Thế miếu, bàn chính cỗ nấu hạng nhất 3 mâm, bánh chưng hạng nhất 6 đôi, nem hạng nhất 30 gói, bàn tả bàn hữu, mỗi bàn cỗ nấu hạng nhất 3 mâm, bánh chưng hạng nhất 4 đôi, nem hạng nhất 20 gói. 8 bàn thờ phụ ở Thái Miếu, 17 thờ phụ ở Thế miếu, mỗi bàn cỗ nấu hạng ba 1 mâm, bánh chưng hạng nhì 1 đôi, mua đậu xanh, mỡ lợn (tiền 4 tiền 32 đồng), nem hạng nhất 3 gói (mỗi gói tiền 30 đồng)”.
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 237, mặt khắc 19, 20 cho biết mâm cỗ cúng tất niên của vương triều Nguyễn. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Trước 1 ngày tất niên, các vua triều Nguyễn hạ lệnh cho viên chức 6 bộ và khoa đạo đến các sở đôn đốc làm cỗ cúng và xem xét lễ phẩm. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 17, mặt khắc 19 cho biết vua Minh Mạng cúng tất niên như sau: “Canh năm ngày hôm ấy, sau khi nổi ba hồi trống và ống lệnh, hữu ty sắp sẵn lỗ bộ pháp giá. Gửi lời tâu lên: “Trong nghiêm ngoài biện”. Vua lên kiệu ra cửa Túc Môn. Điện Càn Nguyên nổi chuông trống. Kiệu đi, nghiêm đường. Phát năm tiếng ống lệnh. Đến cửa miếu, chuông trống ngừng. Đến miếu làm lễ. Lễ xong, kiệu trở về. Điện Càn Nguyên nổi chuông trống, phát năm tiếng ống lệnh”.
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, quyển 23, mặt khắc 10 chép bài văn cúng lễ tất niên mà vua Tự Đức đã đọc như sau: “Vào niên hiệu Tự Đức thứ... vượt ngày sóc... tháng chạp... năm. Hiếu Huyền Tôn tự Hoàng đế (thần)... (ghi ngự danh), (nếu mệnh quan nhiếp tế thì viết: Kính sai quan Khâm mệnh ... tên, chức tước...), kính cáo với: Miếu hiệu (như phần trước) rằng: Năm tháng đã trọn, công việc đã xong, kính dâng các phẩm vật lụa là, vật tế, xôi thịt, rượu ngon kính làm hợp lễ để tỏ lòng mến nhớ tổ tiên. Cúi mong soi xét hâm hưởng. Cùng xin cho các quan tòng tự ở Tả, Hữu Vu phối hưởng”.
Có thể nói, lễ cúng Tất niên dưới triều Nguyễn là một nghi thức quen thuộc của vương triều Nguyễn nhằm đánh dấu kết thúc một năm và chào đón năm mới đang đến gần. Đây là phong tục tập quán lâu đời và mang nét đẹp văn hóa của người Việt Nam.
CAO THỊ THƠM QUANG