Tre làng
Tản văn của TRẦN VĂN THIÊN
Giữa bao bức bối, gió bụi phố phường đôi khi chỉ ước được về ngồi dưới lũy tre xanh, nghe chim véo von trong trẻo. Tôi sinh ra từ xóm làng bình dị, coi bùn đất ruộng đồng là hơi thở, bóng tre già, khúc đồng dao là tâm hồn. Lũy tre xanh kĩu kịt, mát lành vời vợi lâu nay vẫn hiện diện như một phần của nỗi nhớ quê. Nỗi nhớ cuộn về thật đằm, thật sâu, tựa hương Bàu Đá quê hương cay nồng ngấm vào ký ức. Tre gắn bó với tôi từ thuở lọt lòng, gần gũi, thân quen hòa vào những lắng dịu yêu thương trong lời ru của mẹ.
Những lũy tre bao đời nay vẫn lặng thầm, bền bỉ, khiêm nhường như thế. Từ nhỏ, tôi đã được mẹ dạy phải biết quý trọng, hàm ơn cây tre như thể quê hương mình. Trong căn nhà nhỏ ven đầm Thị Nại ấm sực tình thương, tôi lớn lên hồn nhiên bên tre, ở đâu cũng thấy dáng tre mộc mạc, chất phác. Từ chiếc chõng tre kẽo kẹt đưa tôi vào giấc ngủ, đến đôi đũa tre thân thuộc mỗi bữa cơm đầm ấm bên bếp lửa đượm nồng. Từ cái kèo, cái cột vững vàng, bền bỉ, đến những nuột lạt dẻo dai buộc trên mái nhà, làm tôi vẫn thường nghĩ về câu ca dao: “Ngó lên nuột lạt mái nhà. Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”.
Tranh của họa sĩ NGUYỄN TẤN VĨ
Tôi nhớ tre và lòng tôi nhớ mẹ quay quắt. Nhớ chiếc đòn gánh cong hai đầu sương gió, mòn vẹt bóng thời gian mẹ dựng ở góc nhà. Ngày xưa mẹ đã lam lũ gánh từng gánh cá, gánh rau đi rao bán dọc con đường xóm nhỏ ven đầm. Những chiếc rổ tre, thúng mủng như đựng cả tuổi xuân của mẹ, đựng những tháng ngày khó nhọc làm sần chai đôi vai gầy hằng đêm mẹ vẫn xoa dầu gió. Chiếc gióng tre lủng lẳng mẹ móc lên gác bếp, như còn giữ lại bao mưa nắng dọc đường, khiến tâm trí tôi vang lên tiếng rao đầm đẫm, chát mặn mồ hôi của mẹ. Nhìn dáng tre guộc gầy tôi lại nghĩ về mẹ, lại hình dung dáng mẹ ngồi sàng gạo bằng chiếc nia cũ, bụi trắng phủ lưa thưa trên áo quần, nón lá.
Gần nhà tôi, phía sau ngôi miếu làng, cũng có một lũy tre quanh năm rì rào cùng nắng gió. Mẹ kể rằng đó là lũy tre do ông ngoại tôi trồng những ngày đã rất xa. Lũy tre qua bao tháng ngày cứ vươn mình xanh biếc, tỏa bóng hiền hòa xuống vườn chuối thơm thảo. Lá khô rơi xuống bện thành một lớp dày. Dưới bóng tre ấy, tôi và đám bạn quê đã lớn lên cùng nhau qua những cuộc chơi thơ ấu bất tận, rộn rã. Tre hiền lành nghiêng bóng mát, tựa vòng tay bao dung ôm vào lòng những niềm vui thơ trẻ của chúng tôi. Bởi thế mà tôi thương tre như thương tuổi thơ mình.
Lũy tre ấy chính là một trong những thứ quý giá mà ông ngoại đã để lại lúc đi xa. Tre giữ lại tấm lòng của ngoại, ngày ngày lặng thầm tỏa bóng mát rượi. Cha đốn vài cây tre già từ lũy tre ngoại trồng để làm những cái nơm, cái lờ bắt cá. Người quê tôi thường tự tay đan những chiếc lờ bằng tre, đặt ở những bụi cỏ, bụi cây rậm ngoài đầm nước để bẫy cá, rạm đồng. Bàn tay cha khéo léo, tỉ mẩn vót, đan như thể một nghệ nhân lành nghề. Từng thanh tre, sợi lạt trông mỏng manh mà dẻo dai, chắc chắn. Tôi học được tính kiên nhẫn, chú tâm, tỉ mỉ của cha từ những lúc loanh quanh bên cha, vừa thích thú xem vừa ngây ngô hỏi bao điều.
Những ngày ấy, mỗi khi trời mưa, tôi hay tựa cằm ngồi bên cửa sổ và mường tượng về những búp măng tre sẽ mọc lên nõn nà sau mưa. Có những chiều tôi theo mẹ hái măng về xào với tép nhỏ, nấu canh chua cá đồng. Sau này, các cô chú tôi khi đi làm xa ở Tây nguyên trở về thường biếu mẹ vài gói măng khô. Nhìn những cọng măng khô vàng dai, thơm thảo, tôi lại nhớ bóng mẹ tảo tần tìm hái măng tre một thời còn chật vật cơm áo…
Những chiếc chong chóng tre xoay tít tựa vòng đời tuần hoàn xuân, hạ, thu, đông. Thời gian làm con người ta dần xa vòng tay chở che của cha mẹ, xa lũy tre làng êm đềm nghiêng bóng mát. Nhưng tre vẫn lặng thầm góp mặt vào đời sống muôn hình vạn trạng, bền bỉ, thẳng ngay tựa người quê chân lấm tay bùn. Tre đan thành chiếc nôi ký ức bình yên, để lòng tôi nương náu tìm lại hơi ấm quê hương lúc bước chân còn mông lung giữa xứ lạ. Tre ơi…!