Nón cời
Thời mẹ, chiếc nón lá tinh tươm mua từ chợ huyện chỉ để dành đội tết nhất, đám tiệc. Nón được dùng đến lúc ngả màu thâm đen người ta mới dám đội đi làm. Nón dãi nắng dầm mưa, chan sương thấm gió lâu ngày đứt chỉ, bung vành, xừng lá thành ra nón cời.
Nón cời cộp rộp như người sang tuổi xế chiều. Nón thường thiếu vành, ngủn ngoẳn, vừa đủ che mái đầu. Da nón nhăn nheo, xù xì, lốm đốm vệt bùn đất. Mặt nón se sắt, buồn hiu. Quai nón bạc thếch, cũ mèm. Có chiếc gãy sườn thụng thịu, khập khiễng; có chiếc lở lói, trơ xương trông tội nghiệp.
Nón cời còm cõi nhưng cần mẫn, dẻo dai lạ thường. Cả đời nón quần quật hết đồng tới đất, hết rẫy đến rừng. Mới sáng tinh mơ, nón đã có mặt ngoài đồng oằn mình đội sương, chắn gió. Toàn thân ướt sũng sương mai. Mặt trời lên độ gang tay, nón loay hoay gập nẩy rập ràng, nghiêng che làn nắng theo nhịp cày cuốc, xúc tát của nhà nông. Trưa tròn bóng nắng, nón chùng chình về lại mái hiên. Nghỉ ngơi trong chốc lát, nón vội vã vào chiều. Nón chiều nghiêng bóng đồng cao, lô nhô đồng thấp, len lỏi rừng sâu đến tối mịt mới về. Nhiều chiếc bị gai cào, cây thọt lủng thủng nhiều chỗ nhưng nón không hề ngại khó. Đêm khuya mùa hạn, nón còn phải ngụp lặn bờ sòng tát nước gầu giai. Hết xuân đến hạ, hết thu sang đông, nón lại dầm mình trong mưa gió rét. Ngày, nón theo người ra gò nhổ mạ, xuống ruộng be bờ cấy lúa, lên rừng chặt củi đốn cây, xuống bàu mò cua bắt ốc. Đêm, nón úp mặt vách đất nhà trống, phơi lưng gió táp lào xào.
Nón cời khắc khổ nhưng tốt bụng vô cùng. Nón che nắng mưa sương gió cho người. Bất kể ngày đêm, nắng mưa, hễ khi người cần là nón có mặt. Giữa buổi cày đồng mệt nhọc, nhà nông dừng trâu, lấy nón phe phẩy. Gió từ nón mát rượi, ngọt lành xua tan cái nắng trời hanh khô, nóng bức. Tranh thủ lúc nghỉ tay, bác nông dân vào giếng làng uống nước. Khi ra, bác không quên ngửa nón hứng, bê nước ra đồng cho người thân. Nước giếng đựng trong nón cời trong vắt, ngọt ngào. Người uống hớp ừng ực, sồn sột, mát cả ruột gan. Những lúc nhà nông va vẹt đứt tay hay bị đỉa cắn, nhanh nhất vẫn là nón cời cho miếng lá lưng đắp vào vết thương để được cầm máu. Dọc đường về nhà, thấy con cua con ốc, bụi rau trái khế, các mẹ nhanh tay bắt, hái rồi cho vào khu nón bưng về nấu bữa canh nghèo. Trẻ thơ ở quê thấy mẹ đi làm về, trên tay có chiếc nón cời lật ngửa, đằng nào cũng níu gọi từ đầu ngõ. Bởi chúng biết trong nón có những thứ quà quê: ổi, thị, me, cốc… Đêm hè oi bức, bên ánh đèn dầu tù mù, mẹ cầm mê nón cời quạt gió, xua muỗi cho các con. Con mẹ ươm giấc nồng, lớn nhanh từ đôi bàn tay có chiếc nón cời tơi tả. Đến lúc không còn dùng được việc lớn, nón tình nguyện làm vật dụng đựng tro than, ra đồng đội đầu cho những ông bù nhìn, cùng ông đuổi chim canh lúa.
Tuổi xuân mẹ qua nhanh. Đời mẹ gắn chặt với nón cời. Mẹ nhường hết nón trắng quai nhung cho chị. Mẹ đội nón cời đi đầu non cuối bãi, dành dụm, chắt chiu, chăm lo, che chở, chỉ mong sao con mẹ sớm trưởng thành… Chúng tôi lớn khôn, mẹ đã sang tuổi thất tuần. Mắt mẹ mờ, chân yếu, lóng ngóng, chòng chành. Mẹ như chiếc nón cời đội cả sự khắc nghiệt của thời gian.
BÙI TẤN PHƯỚC
Tác giả đã làm cho tôi nhớ lại tuổi thơ nghèo khó của mình, một thời chăn bò, cắt cỏ, lặn lội ruộng đồng, bờ mương, dải soi... Không ngày nào tôi không đội chiếc nón cời. Trời nắng, vào nghỉ mát ở lùm tre, lấy nón cời làm quạt, vào giếng nước bên đường, lấy nón cời làm ca uống nước... Năm tháng qua đi, anh em tôi đã trưởng thành từ dải đất soi quanh năm tươi tốt bắp, đỗ của quê nhà. Nón cời ngày nào đã trở thành kỷ niệm, thay vào là mũ bảo hiểm, khăn che mặt, khẩu trang đi đường. Các con của tôi vẫn thường được nghe mẹ kể chuyện "thời của mẹ" với chiếc nón cời đi cùng tuổi thơ nghèo khó, lam lũ.