Tác động biến đổi khí hậu đến nguồn nước mặt:
Nguy cơ và giải pháp phòng ngừa
Ðề tài nghiên cứu “Ðánh giá tác động của biến đổi khí hậu (BÐKH” đến nguồn nước mặt tỉnh Bình Ðịnh” do kỹ sư Nguyễn Văn Lý, công tác tại Ðài Khí tượng thủy văn khu vực Nam Trung bộ, làm chủ nhiệm, đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ và những giải pháp phòng ngừa ảnh hưởng của BÐKH đến nguồn tài nguyên nước mặt của tỉnh trong những năm tới.
Qua thu thập số liệu nhiều năm, thống kê tính toán bằng nhiều phương pháp khác nhau trên cơ sở đánh giá được lượng mưa, lưu lượng dòng chảy các con sông lớn của tỉnh, như sông Côn, sông Hà Thanh, Lại Giang, La Tinh... đề tài đã đưa ra các kịch bản BĐKH từ nay đến năm 2050 và đánh giá những tác động của nó đến nguồn tài nguyên nước mặt của tỉnh.
Nguồn nước mặt được đánh giá dựa trên lượng mưa và dòng chảy ở các lưu vực sông. Tổng lượng nước mưa hơn 12,5 tỉ m3 và tổng lượng dòng chảy hơn 8,5 tỉ m3, cho thấy tài nguyên nước mặt tương đối lớn. Ảnh hưởng của BĐKH có tác động lớn đến nguồn nước mặt của tỉnh trong các năm tới dựa trên sự nghiên cứu lượng dòng chảy ở các lưu vực sông trong tỉnh đều cho thấy, lượng dòng chảy mang tính cực đoan hơn. Mùa mưa lũ, lượng nước dư thừa nhiều, gây lũ lụt, ngập úng nghiêm trọng, lượng nước chảy ra biển có thể lên đến 80%. Mùa nắng, dòng chảy ở các lưu vực sông giảm mạnh, dẫn đến dòng chảy mùa nắng đã nhỏ càng nhỏ hơn. Thời gian dòng chảy mùa cạn kéo dài và nhu cầu dùng nước lại tăng mạnh, đồng thời nhiệt độ cũng tăng, làm cho bốc hơi tăng mạnh nên nguồn nước mặt cung cấp càng thiếu nghiêm trọng, tình trạng hạn hán sẽ khốc liệt hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn nước mặt tại các nơi trong tỉnh, nhất là ở lưu vực các sông lớn. Kỹ sư Nguyễn Văn Lý cho biết: Để thích ứng và nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn nước mặt trên các lưu vực sông do ảnh hưởng của BĐKH, trong tương lai cần có biện pháp thích ứng cung cấp nguồn nước mặt hài hòa giữa 2 mùa lũ-cạn. Một số giải pháp cần thực hiện như: quy hoạch phát triển bền vững tài nguyên nước ở các lưu vực sông, các vùng trên cơ sở gắn với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển rừng; quản lý có hiệu quả tài nguyên nước ở các lưu vực sông, nhất là ở các sông lớn; xem xét, điều chỉnh, xây dựng, bổ sung các công trình thủy lợi để tăng cường điều tiết dòng chảy; củng cố, nâng cấp hệ thống đê sông; xây dựng các tuyến đê mới nhằm phòng chống, giảm nhẹ thiệt hại do lũ lụt, lũ quét, nước biển dâng…
HIỀN MAI