Phát huy giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2.9.1945, xây dựng quân đội ngang tầm nhiệm vụ
Cách đây vừa tròn 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ Bắc chí Nam nhất tề đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chấm dứt kiếp nô lệ, lầm than, mở ra kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2.9.1945 không chỉ là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mà còn là sự kiện mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc; nguồn cổ vũ, động viên, truyền cảm hứng đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí quật cường dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; trong đó, lực lượng vũ trang (LLVT) có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Chiều ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, lịch sử dân tộc mở sang trang mới-trang sử hào hùng của một dân tộc đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó cũng là bước ngoặt lịch sử chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nước ta và là đòn tiến công mạnh mẽ giáng vào chủ nghĩa thực dân cũ, tạo làn sóng cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên phạm vi toàn thế giới.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cùng lãnh đạo Bộ Quốc phòng thăm Triển lãm khoa học công nghệ quân sự tại Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2019. Ảnh: Phú Sơn
Có được thắng lợi đó, trước hết, Đảng ta đã quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng, chiến tranh và quân đội vào việc chuẩn bị khởi nghĩa. Theo đó, ngày 22.12.1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân-tiền thân của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam anh hùng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã vận động nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng lớn thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Thắng lợi bước đầu của các LLVT cho thấy, chủ trương của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của lực lượng này, Đảng ta quyết định hợp nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.
Tinh thần quật khởi, giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2/9/1945 luôn là nguồn sức mạnh to lớn giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta anh dũng, kiên cường chống các thế lực ngoại xâm, lập nên những chiến công hiển hách, đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước... Giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2/9/1945 mãi mãi là di sản tinh thần to lớn, nguồn động lực thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phát huy nội lực, tự lực, tự cường thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội phát triển; dân chủ được phát huy và ngày càng mở rộng, đất nước ngày càng phồn thịnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông diễn biến phức tạp, khó dự báo. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm, các cường quốc vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ khủng hoảng kéo dài do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo thời cơ và đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc. ASEAN ngày càng thể hiện rõ vị trí, vai trò không chỉ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà đối với cả thế giới, nhất là với các nước lớn. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tăng cường chống phá thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, với âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, quyết liệt. Đứng trước bối cảnh đó, phát huy giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2.9.1945, toàn quân cần quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, triển khai toàn diện các mặt công tác xây dựng quân đội ngang tầm nhiệm vụ; trong đó, tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau.
1. Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Trước sự tấn công ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch, hòng làm cho quân đội mất bản chất, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, trung lập, đứng ngoài chính trị, đòi hỏi cấp thiết phải xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Theo đó, các đơn vị trong toàn quân tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới; chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng, làm cho lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ngày càng thẩm thấu sâu vào cán bộ, đảng viên, trở thành nền tảng tư tưởng, chính trị trong quân đội. Tích cực giáo dục truyền thống cách mạng, nhiệm vụ quân đội, đơn vị; qua đó, tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí, quyết tâm chiến đấu cho bộ đội. Khi giáo dục cần làm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ nhận thức rõ đối tác, đối tượng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không mơ hồ, mất cảnh giác, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời cung cấp thông tin, định hướng dư luận, nhất là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, tạo sự thống nhất, đồng thuận, không để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động, lôi kéo,... bảo đảm quân đội phải luôn là lực lượng đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trước mắt, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, phòng, chống có hiệu quả tác động tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến ”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Yêu cầu đặt ra rất cao, song hiện nay, một số ít cán bộ, đảng viên do thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức nên tha hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của quân đội. Vì thế, cần đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Quân ủy Trung ương về những điều đảng viên không được làm, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Cụ thể hóa vào chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng... giữ gìn và phát huy phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng-di sản quý báu Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Thường xuyên củng cố, kiện toàn các cấp ủy, tổ chức đảng; gắn xây dựng đội ngũ cấp ủy viên với cán bộ chủ trì, bảo đảm cơ cấu, chất lượng. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng, nhằm xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, nơi quy tụ sức mạnh của đơn vị, quân đội.
2. Xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh và cơ động. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, bảo đảm cho quân đội luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến, nhất là trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Vì thế, toàn quân cần triển khai thực hiện hiệu quả Đề án tổ chức QĐND Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020-2025), điều chỉnh tổ chức, biên chế “tinh, gọn, mạnh”; cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giảm đầu mối trung gian, đồng bộ giữa vũ khí, trang bị với nhân lực và công tác bảo đảm. Các đơn vị xác định rõ vị trí công tác cho từng chức danh, trước hết ở cơ quan chiến dịch, chiến lược, khắc phục chồng chéo, làm không đến nơi đến chốn. Có giải pháp đột phá nâng cao chất lượng tuyển quân, tuyển sinh quân sự, tuyển dụng, bảo đảm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho quân đội. Hoàn thành điều chỉnh, sắp xếp lại hệ thống nhà trường, nhà máy, cơ sở sửa chữa quốc phòng và các đoàn kinh tế-quốc phòng. Thực hiện giảm quân số ở các cơ quan, đơn vị, nhưng vẫn phải bảo đảm phục vụ cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở địa bàn trọng điểm, tuyến biên giới, biển, đảo. Tập trung hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu theo Kết luận số 16-KL/TW, ngày 7.7.2017 và Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1.8.2017 của Bộ Chính trị về tổ chức lực lượng và bảo đảm vũ khí trang bị cho QĐND Việt Nam.
3. Đẩy mạnh xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định xây dựng quân đội chính quy là một khâu đột phá, nội dung quan trọng nhằm thống nhất tư tưởng và hành động, làm cho toàn quân thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ. Trước hết, thống nhất về nội dung lãnh đạo, chỉ huy, phối hợp, tính tổ chức, tính kỷ luật... đến huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân theo kế hoạch đã xác định. Toàn quân tăng cường công tác giáo dục, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là Chỉ thị số 37/CT-ĐUQSTW, ngày 14.4.1993 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Chỉ thị số 85/CT-TM, ngày 2.12.1991 của Tổng Tham mưu trưởng về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính quy QĐND Việt Nam những năm tới. Trong đó, tập trung vào một số văn bản mới, như: Chỉ thị số 07/CT-TM, ngày 10.3.2020 của Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam về thực hiện “Năm kỷ luật, kỷ cương” trong quân đội, Hướng dẫn số 740/HD-QH, ngày 24.3.2020 của Cục Quân huấn về hướng dẫn một số nội dung, tiêu chí, biện pháp chủ yếu thực hiện “Năm kỷ luật, kỷ cương 2020”... Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt, công tác; tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ các mối quan hệ xã hội của quân nhân. Chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp cơ sở có đủ phẩm chất, năng lực quản lý, chỉ huy bộ đội. Thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên, chú ý cán bộ chủ trì trong thực hiện chính quy, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, để đơn vị xảy ra vụ việc nghiêm trọng. Chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh trong từng cơ quan, đơn vị; định kỳ sơ kết, tổng kết, xác định chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Các đơn vị thường xuyên quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, chủ động đấu tranh phòng, chống tác động tiêu cực và văn hóa xấu độc.
4. Nâng cao chất lượng huấn luyện-đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định, tập trung “nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu”(1), “chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống(2). Thực hiện chủ trương đó, toàn quân tiếp tục thực hiện nghiêm Nghị quyết số 765-NQ/QUTW, ngày 20.12.2012 của Quân ủy Trung ương về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”; vận dụng sáng tạo các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương châm, mối kết hợp và yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng huấn luyện. Đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, nhất là dân quân biển. Tổ chức diễn tập ở các cấp bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, an toàn, sát thực tiễn. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học tại các học viện, nhà trường và các cơ quan nghiên cứu chiến lược. Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, quản lý khoa học có trình độ tương xứng với công việc, ngành đào tạo; thực hiện tốt việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học qua thực tiễn; đồng thời, có chính sách thu hút nhân tài về các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu chiến lược công tác. Đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phù hợp với từng đối tượng, cấp học, sát thực tế huấn luyện, chiến đấu và yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới; chú trọng rèn luyện bản lĩnh, phương pháp, tác phong chỉ huy, quản lý đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Giải bài toán này, cần tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Để chủ động đối phó với mọi tình huống, toàn quân duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện và luyện tập, diễn tập theo các phương án tác chiến của từng đơn vị. Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ biên giới, vùng trời, vùng biển, nhất là hướng Biển Đông, vùng biển Tây Nam và các địa bàn trọng điểm; phòng ngừa, phát hiện và xử lý thắng lợi các tình huống xảy ra, đặc biệt là các tình huống trên tuyến biên giới, biển, đảo, bảo vệ vững chắc vùng trời. Nâng cao năng lực tác chiến không gian mạng, chiến tranh thông tin; phối hợp triển khai giải pháp tổng thể bảo đảm an ninh, an toàn thông tin; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình: Phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn v.v...
5. Chủ động, linh hoạt trong đối ngoại quốc phòng phục vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31.12.2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trên cơ sở đó, nhận thức đầy đủ vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Trong điều kiện đối tượng, đối tác đan xen như hiện nay, công tác đối ngoại quốc phòng cần nhất quán chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; vận dụng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm đối ngoại đa phương theo Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8.8.2018 của Ban Bí thư, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực ASEAN; cân bằng quan hệ với các nước lớn, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm năng, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với các nước. Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; tích cực tham gia hoạt động Gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc ở các cấp độ. Giữ vững định hướng chính trị, gắn kết nội dung hợp tác về quốc phòng với các lĩnh vực khác; chủ động tham mưu các phương án đấu tranh ngoại giao hiệu quả, giảm căng thẳng, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc và tranh thủ tối đa mọi lợi thế phục vụ xây dựng quân đội.
6. Phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, từng bước đáp ứng nhu cầu vũ khí, trang thiết bị cho các lực lượng. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định “cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh"(3). Quán triệt tinh thần đó, toàn quân tiếp tục đổi mới quy hoạch hệ thống cơ sở sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương thức bảo đảm kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật phục vụ hiện đại hóa quân đội. Tích cực triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16.7.2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQP) phù hợp với Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam và yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Từng bước xây dựng CNQP theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Quy hoạch, sắp xếp các cơ sở CNQP nòng cốt trên cả 3 miền, phù hợp với thế trận phòng thủ chiến lược, đáp ứng yêu cầu bảo đảm tại chỗ. Chỉ đạo kiện toàn tổ chức và hoàn thiện cơ chế quản lý phù hợp, đa dạng hóa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực bảo đảm cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển CNQP. Tập trung đầu tư nghiên cứu làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo thành công một số vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại. Triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giai đoạn 2021-2030, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời bình và thời chiến.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2.9.1945 năm nay cũng là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất của ông cha để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ nỗ lực phấn đấu xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh toàn diện ngang tầm nhiệm vụ, SSCĐ và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 149.
(2) Sđd, tr. 150.
(3) Sđd, tr. 149.
Theo Chinhphu.vn