MỘT THỜI NGỰA XE ĐẤT VÕ
Gạch đá Đồ Bàn hoang phế đã hóa thân thành thành Hoàng Đế của vương triều Tây Sơn năm 1776, nhưng không dừng lại ở đây, vài ba thập kỷ sau lại làm cuộc chuyển đổi khác, địa điểm khác, cách đó khoảng 3 km về phía Nam, từ kinh kỳ của trung ương hoàng đế thành tỉnh lỵ của địa phương- thành Bình Định.
Cuộc thịnh suy hưng phế của lịch sử đặt tang thương lên cảnh vật và thẩm thấu trong trắc ẩn của hồn người, đến đầu thế kỷ XX đã vang bóng trong hồn thơ của một nhóm bạn, và nhóm những người bạn ấy để lại trên thi đàn Việt một cái tên lay động: “Bàn Thành Tứ Hữu”, với Long (Hàn Mặc Tử), Lân (Yến Lan), Quy (Quách Tấn), Phụng (Chế Lan Viên).
Tôi có niềm yêu mến đặc biệt với vùng đất “lối xưa xe ngựa” này và tôi luôn khao khát truyền cảm hứng ấy cho khách văn chương bốn phương trời! Để liên kết với khách văn từ Hà Nội đến, từ Sài Gòn ra, khi được yêu cầu, đôi khi người bản địa cũng tung tẩy vài chuyện giải khuây về hành trình văn hóa Thăng Long- Đồ Bàn trong những thế kỷ xa xưa, khi vết chân ngựa của Lý Trần Lê vào tận kinh thành Phật Thệ. Đặc biệt, con “Song Vỹ Hồng” của danh tướng Lý Thường Kiệt và con “Nê Thông” của Hoàng đế Trần Duệ Tông là hai con “thần mã” lẫy lừng trong lịch sử Đại Việt, từng ruổi rong thiên lý chạm chân đến đế đô hoa lệ Vijaya chốn này.
Chẳng thế mà vùng ven thành Hoàng Đế, có phiên chợ Gò Găng, nổi tiếng mặt hàng nón ngựa Phú Gia, và hình ảnh giới vương tôn công tử ngồi trên lưng ngựa đội những chiếc nón ngựa bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh thỉnh thoảng xuất hiện trong làng quê cổ truyền, dấy lên chút không khí quyền uy. Không rõ các giáo sĩ phương Tây trong đó có bậc tiên khởi của chữ Quốc ngữ là Alexandre de Rhodes dùng phương tiện gì để vào phủ Quy Nhơn trong cái thời Chinh phụ ngâm gọi là “bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền”? Thực ra, vị thừa sai Dòng Tên Cristoforo Borri đã ghi lại trong bút ký về cuộc hành trình thuyền từ Faifo vào Quy Nhơn, trong đó có 8 ngày la đà trên lưng voi ngựa của ông và đoàn tùy tùng quan trấn thủ Pallucambi đến cảng thị Nước Mặn. Nghe nói xa xưa đám cưới Huyền Trân là cả một ngày hội về voi ngựa không tiền khoáng hậu. Nhưng đó là chuyện của đầu thế kỷ XIV, cho dù cả bảy trăm năm rồi vẫn còn thơm ngát trong ca dao xứ sở, và dường như còn phập phồng mạch máu bên trong những đóa sen kiệt tác của phù điêu Chăm Pa lay động ngọn tháp mỹ miều có tên gọi thơ mộng Cánh Tiên. Đến tận nửa sau thế kỷ XX, trừ những cuộc đua, ít thấy người ngồi trên lưng ngựa, song vẫn còn phổ biến loại hình khác, con ngựa kéo theo một cỗ xe bình dân, kèm âm điệu tiếng lục lạc inh ỏi, phương tiện vận tải đắc dụng cho người và sản vật quê nhà. Hồi năm 2000, vào thăm thành Hoàng Đế, GS Viện trưởng Viện Văn hóa Dân gian Nguyễn Xuân Kính có nói với tôi rằng xe do ngựa kéo là từ Nhật du nhập vào ta từ năm 1886. Trong thiên du ký của Phạm Quỳnh đăng trên Nam Phong tạp chí từ 1918, Nam Bộ còn có xe kiếng, kiểu xe Ấn Độ, xung quanh gióng mặt kính, ngựa hoặc lừa kéo đi.
Kinh thành Hoàng Đế gắn liền với những làng nghề, làng trống làng chiêng làng tiện làng đúc làng rèn…và có một làng làm rung môi bốn phương là làng rượu! Có làng rượu ở phía Nam, lại có chợ Rượu ở phía Đông, một thời ngựa xe tấp nập, trên bến dưới thuyền, văn nhân thi sĩ thực khách tửu đồ!
Nay, con ngựa và cỗ xe ngựa Bình Định hầu như vắng bóng trên các làng quê và phố thị. Nếu thời Lê Quý Đôn viết Phủ biên tạp lục thấy được hàng trăm hàng ngàn sản trong hang núi Quy Nhơn thì đến thời điểm hiện nay, không ngọn núi nào còn dấu ngựa rừng, bởi vậy ngựa nhà cũng trở nên ít ỏi, những ai duyên nghiệp gắn bó, tức còn nhớ nghề, còn mộ ngựa, mua tận phương xa về nuôi, chạy vài cuốc để…giữ không khí! Cho nên hôm đầu tháng chạp, ngay ngày chợ phiên Gò Chàm (chợ Bình Định), chúng tôi qua lại mãi một ngày người buôn bán tập trung cao điểm thổ sản địa phương, cam ổi lúc lỉu, gà vịt ngan ngỗng sum suê, tôm cá tí tách, huệ cúc trúc sen ngát hương, mà đếm mãi cũng không quá vài ba cỗ xe ngựa, từ Đập Đá vào.
Tôi nhớ hai chuyện nhà thơ Quách Tấn kể trên chuyến đi xe ngựa về chốn cũ, hồi 1988. Chuyện thứ nhất, là con ngựa Xích Kỳ, vốn là ngựa Chân Lạp, tức Cam Pu Chia. Con ngựa quý này là giống hãn huyết, mình đỏ rực đuôi đen tuyền, mồ hôi có màu máu, vua Miên tặng Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Nhân vi hành Quy Nhơn, Quốc chúa bị “Kinh Kha” Nguyễn Văn Tuyết mưu hành thích, nhưng không thực hiện được vì quân lính canh gác quá kỹ. Tráng sĩ Tuyết hết cách, bèn nhảy lên lưng Xích Kỳ phóng tuốt! Tôi phục tráng sĩ quá giỏi, vì có câu “ngựa ai người nấy cưỡi”, nó không phải xe mô tô đời mới, người không “chính chủ” cứ mở được khóa là vọt lẹ, mà nó là con vật với đầy đủ ố ái hỉ nộ, nhiều con lại trung thành tận tụy đầy ân nghĩa với chủ, lơ mơ nó đá hậu là dập…bộ phận tăng dân số!
Cũng may cho tráng sĩ, hồi ấy không cần…giấy tờ ngựa, không có cơ quan sát hạch việc cưỡi ngựa, như kiểu đăng ký mô tô và thi bằng lái như bây giờ, ra đường lại không có đèn xanh đèn đỏ cũng như cảnh sát giao thông kiểm soát, nên tráng sĩ từ phủ đường Quy Nhơn lướt gió về về Tây Sơn thượng đạo nhẹ nhàng. Nghe nói con ngựa này về sau đã cùng tráng sĩ, lúc này là có hàm Đô đốc Tuyết, ra đánh đuổi quân Thanh trong trận Đống Đa, làm nên nhiều kỳ tích động trời nữa. Chuyện ngựa ngoại còn trường hợp Nguyễn Nhạc, dù ông đã có con Bạch Long Câu phong thái như hổ, chạy nhanh như tên bay từ hồi khởi nghĩa mới nhóm lên, nhưng sau khi lên ngôi, sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, ông đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê! Thái Đức hoàng đế đặc biệt muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu “một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên” trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thi Nại!
Không biết có thần dân nào gọi ngựa của vua là “chuyên mã” giống như bây giờ ta gọi “chuyên cơ” của nguyên thủ hiện đại hay không? Thực ra, theo sử sách, ngày xưa các triều đại đã đặt ra Viện Tượng Chính và Mã Chính là hai cơ quan chăm sóc, huấn luyện voi, ngựa; thời Lê đặt hai Giám ti Ngự Tượng và Ngự Mã; thời Nguyễn có quy chế cụ thể về Mã chính bao gồm ngạch ngựa, chăn nuôi ngựa, kén chọn ngựa, diễn ngựa , trang sức cho ngựa, có cả y sinh chữa bệnh cho ngựa. Và người ta đã phân biệt đẳng cấp ngựa giành cho vua, cho tướng, các loại ngựa chiến, ngựa thồ…Nói chung, cũng là phôi thai các hình thức chuyên cơ, chuyên xa, công xa, chiến xa bây giờ. Trong tàu ngựa Minh Mạng, lại có con Thiên Mã thuộc giống ngựa Trung Đông thuần chủng Ả Rập. Sử cũ cũng cho biết, trước đó, các triều vua Lý cũng nhận cống vật là ngựa trắng của Chiêm Thành hoặc triều Trần cũng từng nhận ngựa Java, tức Indonesia bây giờ. Nhìn chung, các cống phẩm giá trị ấy, quy ra bây giờ cũng là một loại…siêu xe ngoại!
Bây giờ, ở thời buổi “lên máy bay xuống taxi” hoặc “lên xe buýt xuống xe ôm” hoặc “lên tầu xuống xích lô” gì gì đó vân vân, đột nhiên việc “lên voi xuống ngựa” thành “siêu xe”, thành đặc sản chốn đường sá. Ở vùng này, ngọn cỏ quá thơm trên môi những con ngựa truyền thống, nào ngựa vua, ngựa quan, ngựa tướng, ngựa binh, ngựa thồ, ngựa trạm...
Hình như chưa có nhà văn, nhà sử học danh tiếng nào của bản địa không nhắc tới ít nhất một lần, hình ảnh con ngựa trong trước tác của mình. Giở lại những tác phẩm của Đào Duy Từ, Đào Tấn, Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên, Phạm Hổ, Nguyễn Mộng Giác, Tạ Chí Đại Trường...quả đúng thế thật. Con ngựa góp công sức không ít cho cuộc định danh đất võ, con ngựa cũng xuất hiện không ít trong cỗ xe văn chương, và nó trở thành hình ảnh không thể thiếu ở vùng thành Đồ Bàn- Hoàng Đế, như những nhân chứng đầy gợi cảm về một quá khứ đầy trân trọng. Tôi hy vọng trong hành trình văn hóa du lịch quê hương, những bạn văn bốn phương trời sẽ được còn thưởng thức tiếng nhạc ngựa, ngồi trên cỗ xe ngêu ngao với hồ rượu dân dã, nghe những tiếng vọng ngàn xưa trầm tích trong một không gian "Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã- Nhúng đầy trăng mầu áo ngọc lưu ly..."(Yến Lan).
Nguyễn Thanh Mừng