Nguồn gốc của “do dự”
Trong tiếng Việt hiện đại, do dự là một từ láy. Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học giảng: “chưa quyết định dứt khoát làm hay không vì còn nghi ngại. Thái độ do dự” (NXB Giáo Dục, 1995, tr.110).
Tuy nhiên, tìm về nguồn gốc của từ, ta sẽ thấy do dự không được hình thành bằng phương thức láy. Đây là một từ Hán Việt, bắt nguồn từ hai tiếng do dự trong tiếng Hán. Trong đó, do (bộ khuyển) là “tên của một loài khỉ”; dự (bộ thỉ) là “con voi lớn”. Như vậy, do dự là một danh từ được hình thành bằng phương thức ghép đẳng lập.
Thế nhưng, con do và con dự thì liên quan gì đến tính do dự của con người? Trong bài “Có phải là từ láy?” trên Báo Bình Định ngày 17.7.2019, chúng tôi có dịp trình bày về hiện tượng mượn tên con vật để gọi cho tính cách con người, qua các trường hợp hổ báo, hùng hổ. Do dự cũng là một trường hợp tiêu biểu cho hiện tượng này. Cả do và dự đều là những con vật đa nghi, nhát người. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích: “Do dự […] tên hai con thú, tính đa nghi, vì thế nên người nào làm việc thiếu quyết đoán cũng gọi là do dự” (NXB Thanh Niên, 2011, tr.795).
Vào tiếng Việt, do dự được sử dụng phổ biến, dần trở nên quen thuộc, rồi trở thành một… từ láy, dù nó là một từ ghép chính tông. Đây là con đường chung của nhiều “từ láy” gốc Hán trong tiếng Việt hiện đại (như lâm li, lâm thâm, linh đình, linh tinh… mà chúng tôi đã trình bày các lần trước đây trên Báo Bình Định). Cũng xin nói thêm, mượn tên con vật để nói về tính cách con người là hiện tượng khá phổ biến trong nhiều ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, ta cũng có thể gặp hiện tượng này ở những cách nói như chim chuột, chó má, hổ báo, ong bướm…
Th.S PHẠM TUẤN VŨ