“Vọng các” hay “vọng gác”?
Về “chỗ có bố trí người làm nhiệm vụ canh gác”, có nơi ghi “vọng các”, cũng có nơi viết “vọng gác”. Hẳn với nhiều bạn trẻ, đây là những từ xa lạ, thậm chí không rõ từ nào dùng đúng.
Thật ra, vọng các và vọng gác vốn là một dù hình thức ngữ âm của chúng có khác nhau. Trước tiên, về hai yếu tố các, gác. Trong tiếng Việt, có một danh từ gác chỉ “tầng nhà xây dựng liền trên tầng khác” hoặc “tập hợp những thanh tre, gỗ gác ngang trên cao, đặt khít vào nhau, làm nơi cất chứa đồ đạc lặt vặt trong nhà” như trong gác bếp, gác lửng, gác thượng, lầu son gác tía… Đây chính là gác trong vọng gác.
Trong tiếng Hán, các (bộ môn, liên quan đến nhà cửa) có nghĩa là… “gác”, như trong đài các (nhà cao nhiều tầng), khuê các (phòng ở của phụ nữ, thường là người chưa lập gia đình), tàng thư các (gác chứa sách). Về nghĩa thì đã rõ. Về âm, mối quan hệ gần gũi giữa hai phụ âm k- và g- ngoài các ~ gác, ta còn gặp ở nhiều trường hợp khác như [tâm] can ~ [tim] gan, cận [viễn] ~ gần [xa], cấp ~ gấp, kê ~ gà, ký ~ ghi, kỷ ~ ghế… Như vậy, gác trong vọng gác cũng chính là các trong vọng các.
Về yếu tố vọng. Vọng thuộc bộ nguyệt, nghĩa: “nhìn ra xa hoặc nhìn lên cao” (như trong kính viễn vọng); “mong ước, ngóng trông” (như hy vọng, kỳ vọng); “chí nguyện” (như nguyện vọng); “tiếng tăm, danh dự” (như danh vọng, uy vọng); “ngày rằm” (như sóc vọng [sóc: mồng một]). Vọng các là “cái gác để quan sát, canh gác”. Vọng gác là một biến âm của vọng các. Tuy nhiên, so với các, gác quen thuộc hơn với người Việt, lại đồng âm với động từ [canh] gác. Do đó, vọng gác được dùng nhiều hơn. Thực tế, Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) chỉ ghi nhận mục từ vọng gác mà không có vọng các.
Trong tiếng Việt, còn có một từ các được dùng rất phổ biến. Đó là lượng từ các, như trong các ngày trong tuần, các vị ấy… Đây là một từ Hán Việt. Trong tiếng Hán, các thuộc bộ khẩu, có các nghĩa “các, mỗi, đều, cùng”.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ