Nghi ngờ và hồ nghi
Nghi trong nghi hoặc, nghi kị, nghi ngại, nghi ngờ, hoài nghi, hồ nghi… là một từ Hán Việt. Theo sách Tìm về cội nguồn chữ Hán, hình trên giáp cốt văn của chữ nghi là một người chống gậy đứng ở ngã ba đường, chưa biết đi về hướng nào (Lý Lạc Nghị, NXB Thế Giới, 1997, tr.451). Nghĩa gốc của nghi là “do dự, bất định, ngờ vực, ngỡ là”. Vào tiếng Việt, nghi giữ nguyên nghĩa, lại được sử dụng phổ biến đến mức nhiều người không còn nhận ra nguồn gốc Hán của nó.
Ngờ, ngỡ như trong ngờ là, ngỡ rằng cũng là những từ Việt gốc Hán và bắt nguồn từ chính chữ nghi trên. Chuyển hóa giữa /i/ và /ơ/ là mối quan hệ khá phổ biến và gần, như các trường hợp sau: [hân] hỷ ~ [hớn] hở, [quốc] kỳ ~ cờ [tổ quốc], [tượng] kỳ ~ cờ [tướng], [Đường] thi ~ thơ [Đường]… Nghi ~ ngờ/ ngỡ cũng nằm trong quan hệ ngữ âm này. Do đó, nghi ngờ là một từ ghép đẳng lập, không phải từ láy.
Trong tiếng Hán, gần nghĩa với nghi là hoặc. Cho nên mới có tổ hợp đẳng lập nghi hoặc. Chữ hoặc còn có một âm đọc khác là vực. Ngờ vực chính là do nghi hoặc mà ra.
Vậy còn hồ nghi bắt nguồn từ đâu? Hồ thuộc bộ khuyển, nghĩa là “con hồ ly”, tức “con cáo”. Con cáo có tính đa nghi. Hồ nghi có thể hiểu là “tính hay nghi của con cáo”. Người ta mượn đó để nói cho tính cách con người. Hán Việt tự điển giảng: “tính cáo đa nghi, cho nên người hay ngờ vực gọi là hồ nghi” (Thiều Chửu, NXB Thanh Niên, 2011, tr.464).
ThS. PHẠM TUẤN VŨ