Tung hoành và tứ tung
Tung hoành là một từ Hán Việt. Tung có nghĩa “dọc”, như trục tung (trục dọc trong hệ tọa độ mặt phẳng), tung độ… Hoành nghĩa là “ngang”, như trong trục hoành, hoành độ, cơ hoành hay hoành cách mô (tấm màng nằm ngang ngăn ngực và bụng), hoành hành (làm điều ngang ngược), hoành phi (tấm biển nằm ngang)... Vào tiếng Việt, tung hoành được đối dịch thành dọc ngang hoặc ngang dọc. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du dùng rất hay hai chữ “dọc ngang” để thể hiện khí phách hơn đời của Từ Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
Tung hoành có liên quan với tứ tung. Không ít người nhầm tứ tung là từ láy. Kỳ thực, đây là phần rút gọn của thành ngữ tứ tung ngũ hoành (bốn đường dọc, năm đường ngang). Thành ngữ này vốn chỉ một phương cách để tìm cầu sự bình an, may mắn khi xuất hành của những người tin theo thuật số kỳ môn độn giáp.
Theo tác giả Hoàng Tuấn Công, khi có việc cần phải ra ngoài mà không thể chọn được ngày, giờ, hướng xuất hành tốt thì đứng trang nghiêm trước cổng, mặt quay ra, tặc lưỡi 36 lần, lấy ngón trỏ vạch lên không trung bốn đường dọc (tứ tung) và năm đường ngang (ngũ hoành). Sau đó, niệm bài thần chú để xin thần linh che chở cho thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn, không bị yêu ma sách nhiễu dọc đường. Niệm xong thì đi thẳng, không quay đầu lại.
Tứ tung ngũ hoành gồm 4 đường dọc và 5 đường ngang đan vào nhau, trông như một tấm lưới, tạo cảm giác lộn xộn, lung tung, ngang dọc, bốn bề, đâu đâu cũng có. Đây là nguồn gốc dẫn đến các nét nghĩa “ở bất cứ chỗ nào, khắp mọi nơi” (như nhà dột tứ tung) và “lộn xộn, bừa bãi, để bất cứ đâu một cách hoàn toàn không có trật tự” (như vali bị lục tứ tung) của thành ngữ tứ tung ngũ hoành cũng như dạng nói tắt của nó là tứ tung.
Xin nói thêm, từ tung trong tung bay, tung lên, tung ra, lục tung, nổ tung cũng chính là tung trong tung hoành. Chữ tung này ngoài nghĩa “dọc”, còn các nghĩa “tung lên, thả ra, phóng ra, buông ra”.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ