Năm Sửu, kể chuyện nuôi trâu
Ở thời nông nghiệp được cơ giới hóa ngày nay, hình ảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau chỉ còn trong hoài niệm, song với nhiều nông dân thì vẫn “con trâu là đầu cơ nghiệp”...
Một đàn trâu ở xã Bình Nghi, Tây Sơn.
“AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ”
Theo nhiều gia đình có thâm niên nuôi trâu, tuy tốn công hơn nuôi bò song thức ăn hoàn toàn bằng rơm, cỏ, cây lá tự nhiên, do vậy tiết kiệm chi phí. Điểm thuận lợi nữa, trâu là loài rất khôn và hiền, khiến người nuôi cảm tình, đã gắn bó là khó dứt.
Nuôi trâu “nhàn hạ” nhất phải kể đến là tập quán nuôi thả rông trong rừng của đồng bào miền núi. Những sườn núi, cánh rừng bạt ngàn cùng khe suối là điều kiện lý tưởng để trâu tự tìm nguồn thức ăn, thỏa sở thích đầm mình trong nước và sinh trưởng. Người nuôi tháng đôi lần đi thăm trâu, theo dõi trâu nái sinh sản để kịp thời “cập nhật” số lượng, đến mùa đông dắt trâu về nuôi trong chuồng cho ấm và ăn Tết cùng, sau đó lại cho vào rừng đến khi nào bán mới dắt về.
Ở xã miền núi Vĩnh An (huyện Tây Sơn), ông Đinh Krép (79 tuổi, ở làng Xà Tang) được xem là người nuôi mát tay, thoát nghèo nhờ trâu. Năm 1987, gia đình ông bắt đầu "cơ nghiệp" với vốn liếng là 2 con trâu tơ Nhà nước cho mượn theo chính sách hỗ trợ vật nuôi. Sau hơn 3 năm, vợ chồng ông trả được nợ, đàn trâu cũng tăng lên 4 con và cứ thế 2 trâu nái đều đặn 1 năm rưỡi cho trâu nghé.
Ông Krép cho biết, nuôi thả rông trên núi, thỉnh thoảng cũng có trường hợp trâu trở nên hoang, lung, đi luôn hay dính bẫy săn thú rừng bị thương rồi chết, song không bao giờ có chuyện nhầm lẫn trâu nhà này với nhà kia mà cãi cọ, mất đoàn kết. “Quanh năm, trâu ăn trên núi Tà Măng, người nuôi kết hợp đi làm rẫy, lấy mật, hái rau, lượm củi ghé thăm chừng, coi như của để dành mà không phải nhọc công. Nhà tôi cũng như nhiều nhà khác trong vùng, vài ba năm có thể sắm được chiếc xe, mua cái tivi… là nhờ nguồn bán trâu”, ông Krép nói.
“Người nuôi trâu đầu tiên ở Vĩnh An là ông Đinh Thời; còn ông Đinh Sơn là người nuôi nhiều và hiệu quả nhất, có thời điểm đàn trâu nhà ông Sơn lên đến 50 con, đứng ăn đen cả một vạt rừng Tà Măng, cũng nhờ đó mà vợ chồng ông nuôi cả 4 đứa con đều học đại học, thành đạt”, ông Krép kể.
Xã Phước An (huyện Tuy Phước) - nơi có các bãi bồi, đồng cỏ tự nhiên rộng lớn như Bàu Đưng, Bàu Súng, Đồng Lát… thuận lợi cho việc nuôi trâu và đó cũng là nghề truyền thống của địa phương, rải rác ở các thôn Thanh Huy 1, Thanh Huy 2, An Sơn 1, Quy Hội, Đại Hội. Trong đó, Thanh Huy 1 có nhiều người nuôi nhất với 15 hộ, tổng đàn 96 con. “Triệu phú” trâu của thôn là vợ chồng Phan Cao Thanh - Huỳnh Thị Ngọc Thi (cùng 43 tuổi), ở xóm 4, sở hữu đàn trâu 11 con và một cơ ngơi mơ ước.
Nhà quay mặt ra Bàu Súng rộng lớn, mát mẻ, quanh năm cỏ, lác xanh tốt, 6 năm trước từ khi ra riêng cất nhà tại đây, vợ chồng chị Thi liền “nối” nghề nuôi trâu ăn nên làm ra của cha mẹ. Bắt đầu với 2 con nghé cái, hiện đàn trâu của vợ chồng chị có 4 trâu đực, 3 trâu nái và 4 trâu nghé. “Nhờ tiền bán trâu mà gia đình sắm được máy cày, nhiều máy móc nhà nông khác, xây được nhà cửa khang trang, nuôi con ăn học chu đáo, thật đúng là “đầu cơ nghiệp”, chị Thi phấn khởi cho biết.
VẸN NGUYÊN THÂM TÌNH
Từ nhiều năm qua, con trâu đã làm xong “sứ mệnh lịch sử” của mình trên cánh đồng là kéo cày. Tuy vậy, tình cảm của chủ nuôi dành cho loài gia súc này vẫn rất đặc biệt.
Theo ông Đinh Đen (thường gọi là bá Kiêu), già làng làng Kon Giọt 1, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh An, đồng bào nơi đây bắt đầu nuôi trâu và sử dụng trâu vào việc nhà nông là từ sau năm 1945. Thời Pháp thuộc, đồng bào vẫn nuôi nhưng ít, tập trung ở làng Kon Giọt 2, và đó là con vật thiêng, dùng cho lễ hội đâm trâu, khi cúng Giàng và xẻ thịt trữ ăn dần. Sau thấy người Kinh dùng trâu để cày bừa, kéo cộ chở phân bón, thu hoạch nông sản..., đồng bào cũng làm lễ xin phép Giàng để trâu tham gia vào nghề nông ở vùng cao. “Điều thú vị là, từ khi trâu phục vụ sản xuất nông nghiệp thì sự gắn bó thường xuyên và sâu đậm hơn, đồng bào tuyệt đối không dùng trâu làng để làm lễ đâm trâu cũng như những việc cúng tế khác nữa”, già làng bá Kiêu cho biết.
Tại xã Phước Thuận (huyện Tuy Phước), tuy không phải nuôi nhiều hay hiệu quả nhất song ông Huỳnh Văn Tấn (thôn Liêm Thuận) “nổi tiếng” trong giới nuôi trâu ở địa phương bởi là người duy nhất còn sử dụng trâu để cày. Vợ ông, bà Phạm Thị Em kể: Cứ đến mùa vụ mới, ông ấy ngẫu hứng đem trâu ra cày để nhớ về chuyện làm đồng kiểu cũ.
Cũng bởi nơi chăn thả, mương, ao để trâu tắm ngày càng ít đi, trong khi đây là loài cần được cho ra ngoài trời vận động, ăn cỏ cây tươi, nhất là tắm táp nên người nuôi không ngại nhọc công đi theo trâu. Như ông Tấn, cứ đến mùa hè, trong vùng khô cạn là ông rảo khắp các xã lân cận để tìm chỗ rồi dong đàn trâu đến khu vực ven sông Bồ Ấu ở xã Phước Nghĩa để “trú ngụ”. Ban ngày để trâu tự ăn, tối dồn trâu lại một chỗ để nghỉ, còn ông với chiếc võng dù ngủ cùng trâu. “Loài trâu rất khôn theo kiểu hiền lành và tình cảm, nhớ mãi lần bán con nái già, con đực buồn bã, như người mất vợ, vợ chồng tôi đã không dám đối diện nó, trốn trong nhà lén nhìn ra. Mình nuôi, thương chúng, nên chúng cũng trả công cho mình”, ông Tấn lý giải về những mùa hè “du mục”cùng đàn trâu khi trìu mến vỗ vỗ lưng con Cái Lớn.
Với chị Thi, kể từ khi “gia nhập” nghề nuôi trâu, lúc nào đàn cũng trên 10 con. Chị tâm tình: “Có nuôi mới hiểu, trâu là giống vật rất khôn và tình cảm; chỉ mong sao giá cả ổn định, đừng dịch bệnh, dẫu cực mấy cũng vui vẻ gắn bó với con vật nuôi dễ mến này”.
Bài, ảnh: SAO LY