Lệ xuân nón tốt lai kinh
Cả nước có hàng trăm, hàng nghìn làng nón. Nhưng ít người biết rằng chỉ chiếc nón lá Bình Định mới là thứ nón duy nhất của cả nước, cứ đến lệ xuân được tuyển chọn để bán cho triều đình từ gần 200 năm trước; cũng từ xa xưa nón lá Bình Định đã là hàng xuất khẩu quý giá!
Thuở xưa ba miền nón lá
Có người cho rằng nón lá ra đời vào thời nhà Trần, ở làng Ma Lôi thuộc lộ Hồng Châu, nay thuộc vùng Hưng Yên, Hải Phòng. Vài trích dẫn từ “Lĩnh ngoại đại đáp” của Chu Khứ Phi năm 1178, trong “Văn hiến thông khảo” của Mã Đoan Lâm năm 1307 hay trong bức họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như ra đời vào giữa cuối thế kỷ XIV…, một vài người cho rằng hình ảnh nón lá đã được miêu tả trong các tác phẩm này, nghĩa là ngầm khẳng định - chiếc nón lá ở nước ta đã có lịch sử gần một nghìn năm hiện diện.
Chóp nón ngựa. Ảnh tư liệu của N.Đ.V
Ở tận phía Nam, cách đây hơn 200 năm, khi ghi chép về sản vật, phong tục vùng Gia Định - Nam bộ trong “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức cho biết, trước thời vua Lê Thế Tông định lại sắc phục vào năm Mậu Ngọ (1738), người Việt ở vùng đất này vẫn theo tập tục người Giao Chỉ, quy định theo từng cấp bậc, trừ quan chức, con trai con gái vẫn theo tục người Giao Chỉ, con gái mặc váy không gấp nếp, đội nón lá lớn.
Ở Huế, sau chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille, vào tháng 9.1924, vua Khải Định đã tổ chức lễ Tứ tuần đại khánh (lễ mừng thọ 40 tuổi) ở Huế. Qua những hình ảnh lẫn phim tư liệu còn lưu lại, chúng ta có thể thấy hàng nghìn người dân đất kinh kỳ đội nón trắng đứng xem đại lễ trong thành nội.
Trong cuốn “Kỹ thuật của người An Nam” (Technique du peuple Annamite) do Henri Oger và các nghệ nhân người Việt Nam thực hiện năm 1908 - 1909 với 4.577 bức tranh khắc, chúng ta cũng thấy hình ảnh một vị quan đội nón lá (có lẽ là nón ngựa) và các kiểu nón của người An Nam thời đầu thế kỷ XX.
Điểm qua các tư liệu về nón lá trên đây cũng đã thấy ít nhiều sự xuất hiện của nón lá ở cả ba miền đã rất lâu đời. Hà Nội còn có làng nón Thanh Oai, có phố Hàng Nón (rue des Chapeaux). Ở Hà Nam có làng nón Giải Tây. Ở Phú Thọ có các làng nón Sai Nga, Sơn Nga, làng Dền. Ở Quảng Trị có làng nón Bố Liêu. Ở Thừa Thiên - Huế có các làng nón Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Mỹ Lam, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ. Ở Quảng Ngãi có nón Tịnh Bình. Theo “Địa chí Tây Ninh” (2006), ở Nam Bộ còn có các làng nón An Hòa, Ninh Sơn (Tây Ninh), nón Lộc Giang (Long An) mà những sản phẩm nón lá ở các vùng này còn bán lên tận Chợ Lớn lẫn các tỉnh miền Tây Nam bộ. Có lẽ không thể nào kể hết các làng chằm nón lá ở Việt Nam xưa nay. Nhưng có lẽ, không có nón lá của địa phương nào lại được sử sách đề cập nhiều như nón lá Bình Định.
Nón lá Bình Định, một sản vật đặc trưng
Trong “Hoàng Việt nhất thống địa dư chí” - bộ sách sử đầu tiên dưới thời nhà Nguyễn, do Lê Quang Định - Thượng thư Bộ Binh khởi biên từ đầu thời Gia Long và hoàn thành năm 1806, có ghi chép về thổ sản Bình Định gồm: Kỳ nam, trầm hương, mỏ sắt, diêm tiêu, hồ tiêu, sáp mật ong, tê giác, voi, lụa sống, lụa đen, tơ màu, vải trắng, trà ngọt đắng, lông nhím, nón trắng, cá chình, than củi, muỗng dừa, dầu rái, trầu nguồn.
Nón Phú Gia. Ảnh tư liệu của N.Đ.V
“Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” của Nội các triều Nguyễn, khi đề cập đến mục thuế khóa của các địa phương thì chỉ có Bình Định là nơi phải chịu nộp thuế nón lá. Sách này cho biết, vào năm Gia Long thứ 7 (1808), nhà vua chuẩn lời tâu cho lệ thuế ở trại Lá Trám nguồn Hà Thiêu (?) thuộc Bình Định mỗi năm 210 quan và “thợ làm nón trắng 20 người phải nộp thuế sản vật cả năm nón trắng 20 cái; nay số dân nộp thuế sản vật đã sung vào lính tuyển mà lệ cũ về nón trắng vẫn còn, nên trừ miễn lệ cả năm nộp 20 nón trắng…”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí”, quyển IX, khi ghi chép về thổ sản Bình Định cũng cho biết: Ở Bình Định “nón lá non sản ở huyện Phù Cát, nón lá già sản ở huyện Tuy Phước”.
Trong bức ảnh mà Émile Gsell (1838 - 1879) chụp một notable (tạm dịch là nhân sĩ) khoảng những năm 70 của thế kỷ XIX ở Nam Kỳ có đội chiếc nón mà theo nhiều người cho rằng đó chính là nón ngựa Bình Định. Sách “L’Annam en 1906: Géographie - Histoire - Administration - Commerce. Agriculture - Industrie”, Merseille, 1906, cũng cho biết: Người An Nam ở Bình Định sản xuất nón bằng lá kè rất quý giá, được xuất khẩu tới Singapore.
Quách Tấn trong “Nước non Bình Định” còn liệt kê lẫn đánh giá các loại nón ở Bình Định: Ở Bình Định “có 3 loại bằng lá kè: Nón ngựa làm ở Kiều Đông, Kiều Huyên, Phú Đa (Gò Cũ) thuộc quận Phù Cát, thường đi bán ở chợ Gò Găng nên tục gọi là nón Gò Găng. Đẹp và sáng, nhưng không chịu nổi mưa gió, nên chỉ dành cho khách phong lưu, khuê các. Nón lá buông nhiều nhất ở Hòa Dõng (Phù Cát). Nón chỉ đác, tục gọi là nón trủm, vùng Đồng Dài ở An Lão chuyên môn. Đó là hai loại nón bình dân, vừa chắc vừa rẻ. Nắng mưa đều không ngại. Nếu phết thêm một lớp dầu trong nữa thì bền không kém nón mây của người Trung Hoa”.
Hàng nón chợ phiên Phù Cát. Ảnh: NGUYỄN THỊ QUYÊN
Liệt kê sơ bộ những tài liệu nêu trên cũng chỉ để thấy rằng, chiếc nón lá Bình Định đã có từ lâu đời, đã được vượt ranh giới của nước non Bình Định, được dùng phổ biến ở nhiều nơi, nhất là ở Sài Gòn, Nam Kỳ, đã ra cả nước ngoài từ thuở xa xưa.
Nơi duy nhất cứ lệ xuân nón tốt lai kinh
Đọc “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” có một chi tiết khá thú vị: Trong quyển 66, mục “Nhà nước thu mua” có kể về nhiều loại sản vật, khí dụng mà triều đình chuẩn cho thu mua hàng trăm loại ở các địa phương, trong đó có nón lá. Nón lá thì nhiều nơi có, ngay ở kinh đô Huế cũng có rất nhiều, nhưng trong mục mua Nón lá chỉ thấy triều đình chuẩn cho mua toàn là nón Bình Định.
Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) nhà vua xuống chỉ, theo đó hằng năm cứ đến mùa xuân chọn mua 50 chiếc nón trắng của Bình Định, trong đó có 20 chiếc thượng hảo hạng, 30 chiếc tốt vừa và xem đó là lệ mãi mãi về sau.
Tiếp theo vào các năm 1824, 1827, 1830, 1831, nhà vua không chỉ xuống chỉ tiếp tục mua nón Bình Định, nêu rõ số lượng, số tiền, mà còn chỉ cách chuyên chở… Riêng năm Minh Mạng thứ 8 (1827) lại chuẩn cho mua 30 chiếc nón trắng Bình Định hảo hạng có vảy trắng ba ba mỗi chiếc giá 1 quan 9 tiền và hạng tốt vừa, mỗi chiếc giá 1 quan 3 tiền. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) có định lệ, từ năm này về sau, khi chở nón trắng Bình Định về nộp cho triều đình không nên đi “theo đường bộ cho vất vả” mà chở theo đoàn thuyền vận tải chở các sản vật (khác).
***
Từ định lệ mua nón Bình Định trên đây có lẽ cũng đã thấy rằng, từ lâu nón Bình Định đã có “thương hiệu”, có “đẳng cấp” - như các từ hay dùng bây giờ. Ắt hẳn nón lá Bình Định là loại nón lá đẹp, bền mà không có nơi nào sánh được.
TS. NGUYỄN ĐĂNG VŨ