Mỹ không chỉ là đẹp
Mỹ trong mỹ nhân là một từ Hán Việt, tự dạng gồm bộ dương ở trên, chữ đại ở dưới. Theo sách Tìm về cội nguồn chữ Hán, chữ này có hình “giống một người trên đầu đội vật trang sức giống sừng dê hay lông chim, trang điểm rất xinh đẹp” (NXB Thế Giới, 1997, tr.442). Nghĩa của mỹ là “đẹp”. Đây là nét nghĩa quen thuộc của hình vị mỹ trong tiếng Việt mà ta gặp ở rất nhiều từ: Mỹ cảm, mỹ học, mỹ lệ, mỹ nghệ, mỹ nữ, mỹ phẩm, hoàn mỹ, tuyệt mỹ…
Một số cuốn từ điển từ láy tiếng Việt như Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Giáo Dục, 1995) ghi nhận mĩ mãn (mỹ mãn) là từ láy (tr.339). Tuy nhiên, truy về nguồn gốc, mỹ mãn lại là từ ghép. Đây là một từ Hán Việt được tạo thành từ hai yếu tố có nghĩa: Mỹ là “tốt đẹp” và mãn là “tràn đầy”. Mỹ mãn là “tốt đẹp đầy đủ”.
Ngoài nghĩa “đẹp”, mỹ còn một nghĩa là “ngon”. Nghĩa này ta gặp trong mỹ vị, cao lương mỹ vị. Mỹ vị là “vị ngon”, mở rộng nghĩa chỉ “món ăn ngon và quý”. Trong bài Lương Châu từ nổi tiếng của Vương Hàn có nhắc đến một loại mỹ tửu tên “bồ đào” (Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi). Mỹ tửu chính là rượu ngon, quý.
Bên cạnh các nét nghĩa tính từ “đẹp, tốt, ngon, hay”, mỹ còn một nghĩa động từ là “ngợi khen”. Nét nghĩa này gặp trong các từ tán mỹ, tụng mỹ (tán, tụng cũng như mỹ đều có nghĩa “khen, ngợi”). Hiện nay, hai từ này ít còn được sử dụng, nhưng ở đầu thế kỷ XX, chúng khá phổ biến. Bằng chứng là trong bản Kinh Thánh tiếng Việt do nhà báo Phan Khôi và các cộng sự dịch (phát hành năm 1926), các từ này được dùng thường xuyên.
Chữ mỹ trên còn mang nghĩa “nước Mỹ, châu Mỹ”. Người Trung Quốc phiên âm các từ America, American thành mỹ lợi gia, mỹ lợi kiên (âm Hán Việt) rồi dần nói tắt thành mỹ (cũng như Ý là rút gọn của Ý Đại Lợi, phiên âm từ Italy). Người Trung Quốc gọi nước Mỹ, người Mỹ, tiền Mỹ là Mỹ quốc, Mỹ quốc nhân, Mỹ nguyên (âm Hán Việt). Đồng dollar của Mỹ người Việt ta trước đây thường gọi là mỹ kim, nay chủ yếu gọi đô la, đô la Mỹ hoặc gọn hơn là đô.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ