Nguồn gốc của bồng bềnh/bềnh bồng
Từ điển tiếng Việt định nghĩa bồng bềnh (cũng như bềnh bồng) là “từ gợi tả dáng chuyển động lên xuống nhẹ nhàng theo làn sóng, làn gió” (Hoàng Phê chủ biên, 1992, tr.97).
Về từ loại, cả hai đều là từ láy như hầu hết các cuốn từ điển từ láy đã ghi nhận. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là trong hai từ này, bồng và bềnh có nghĩa không; nếu từ láy thì đâu là yếu tố gốc, đâu là yếu tố láy… Để giải quyết những vấn đề trên, không còn cách nào khác là phải truy về nguồn gốc của những từ này.
Theo các nhà ngôn ngữ, bồng bềnh hay bềnh bồng là những phiên bản khác của bình bồng. Từ điển tiếng Việt có ghi nhận từ bình bồng, xếp vào nhóm từ cũ và giảng là “lênh đênh, phiêu bạt nay đây mai đó” (Sđd, tr.81). Trong phương ngữ Nam Bộ hiện nay, bình bồng với nghĩa như bềnh bồng/bồng bềnh vẫn còn được sử dụng. Về mặt ngữ âm, sự chuyển hóa giữa bình ~ bềnh diễn ra khá dễ dàng, cũng như giữa linh đinh ~ lênh đênh, gập ghình ~ gập ghềnh, [dòng] kinh ~ [con] kênh…
Vậy, bình bồng là gì? Đây là một từ ngoại lai, bắt nguồn từ từ bình bồng, thành ngữ bình phiêu bồng chuyển trong tiếng Hán. Trước hết, chữ bình (bộ thảo, liên quan đến cỏ), nghĩa là “cây bèo”. Ta gặp từ này trong lục bình (bèo màu xanh lục, tức bèo tây hay bèo Nhật Bản), bình thủy tương phùng (bèo nước gặp nhau).
Chữ bồng (cũng bộ thảo) là tên một loại cỏ, cỏ bồng. Theo học giả Hoàng Tuấn Công, cỏ bồng còn được gọi là “ngải dại”, “tai hùm”, thuộc họ Cúc, “khi hoa nở, muôn vàn hạt hoa bé xíu, nhờ mào lông bay theo gió, gieo hạt khắp muôn nơi”.
Như vậy, cả bình lẫn bồng đều có một đặc điểm chung là phiêu dạt, trôi nổi khắp nơi. Từ đó mà có câu bình phiêu bồng chuyển (bèo trôi bồng dạt). Đây là hai yếu tố có nghĩa. Cho nên, nếu xét đến cùng thì bồng bềnh hay bềnh bồng là những từ được tạo thành bằng phương thức ghép; do đó, không phải là từ láy.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ