Ứng phó với biến đổi khí hậu ở TP Quy Nhơn:
Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Trong năm 2013, một nghiên cứu được tiến hành với sự tham gia của các cộng sự tại Đại học RMIT - Australia phối hợp với các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, quản lý, hoạch định chính sách về biến đổi khí hậu (BĐKH) ở trung ương và địa phương, đã phần nào làm sáng tỏ hơn bức tranh về BĐKH tại TP Quy Nhơn.
Tác động của BĐKH và một số giải pháp đề xuất
Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng BĐKH trên địa bàn thành phố được thể hiện rõ nét thông qua 17 hiện tượng tự nhiên như sự gia tăng nhiệt độ, biến đổi lượng mưa, độ ẩm không khí… Trong đó, 5 hiện tượng được đánh giá là phổ biến nhất và gây ảnh hưởng lớn nhất, đó là bão, lũ lụt, hạn hán, xói lở bở sông, bờ biển và cát di chuyển. Những khu vực được đánh giá bị tổn thương nặng nề nhất bao gồm các xã đảo và bán đảo như Nhơn Hội, Nhơn Hải, Nhơn Lý, Nhơn Châu; các phường tiếp giáp đầm Thị Nại như Nhơn Bình, Nhơn Phú, Đống Đa. BĐKH đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, khai thác và nuôi trồng thủy hải sản. Nghề làm muối cũng gánh chịu những thiệt hại to lớn, diện tích vùng muối đã giảm liên tục trong 7 năm qua…
Cơn lũ lịch sử năm 2013 đã nhấn chìm một số địa phương trong tỉnh.
- Trong ảnh: Đoạn đường vào TP Quy Nhơn bị chìm trong nước lũ. Ảnh: VĂN LƯU
Có 17 nhóm giải pháp được các chuyên gia đề xuất nhằm giảm nhẹ thiệt hại của BĐKH. Một đặc điểm hết sức thú vị được rút ra từ nghiên cứu là phần lớn các chuyên gia, nhà quản lý tại địa phương đều tập trung nhấn mạnh tầm quan trọng và tính cấp thiết của các nhóm giải pháp “cứng” hay giải pháp công trình. Trong đó bao gồm việc hoàn thiện hệ thống đê kè chắn sóng ven biển, đê ngăn mặn trong đầm Thị Nại, đặc biệt là hệ thống đê Khu Đông. Giải pháp trồng rừng ngập mặn trong đầm Thị Nại cũng được đề ra như một phương thức bền vững, vừa bảo vệ hệ thống đê kè trước bão lũ, vừa nâng cao tính đa dạng sinh học và hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng.
Một số chuyên gia lại nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết trong việc xem xét, điều chỉnh quy hoạch TP Quy Nhơn theo định hướng quy hoạch thêm nhiều vùng đệm cây xanh, giữ nguyên hoặc mở rộng các hồ điều hòa hiện có như hồ Bông Hồng, hồ Đèo Son, hồ Bàu Sen... Thành phố cũng cần quy hoạch và khẩn trương xây dựng thêm nhiều khu tái định cư để di dời 7.848 người, thuộc 2.088 hộ dân hiện nằm trong vùng nguy cơ thiên tai.
Đôi điều trăn trở
Những giải pháp công trình được các chuyên gia chú trọng đề xuất nêu trên liệu có thực sự bền vững trong tương lai. Dĩ nhiên câu trả lời là “không”. Lý do là bởi diễn biến và mức độ tàn phá của các hiện tượng thời tiết bất thường trong thời gian qua đã phá vỡ mọi quy luật và vượt quá khả năng ước đoán của giới khoa học, trong khi các giải pháp công trình mà hiện nay chúng ta đã và đang triển khai lại đều phải tuân thủ theo những ước tính, những định mức và những kịch bản cụ thể.
Một điều cũng cần phải thừa nhận là các giải pháp công trình sẽ sớm phát huy tác dụng và dễ đem đến sự an tâm cho cộng đồng trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Thế nhưng, cũng là một hạn chế không nhỏ của nhóm các giải pháp này, đó là chi phí đầu tư và duy tu quá lớn, nhiều khi vượt quá khả năng chi trả của ngân sách địa phương. Chẳng hạn như việc xây dựng 1km đê Đông với yêu cầu tối thiểu đã phải đầu tư khoảng 20 tỉ đồng và kinh phí duy tu thường xuyên của cả hệ thống này hàng năm tiêu tốn hàng chục tỉ đồng.
Giải pháp “mềm”
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu khí tượng, thủy văn và môi trường, nhiệt độ trung bình năm tại TP Quy Nhơn có thể tăng thêm 0,50C vào năm 2020, và 2,90C vào năm 2100; tương ứng với lượng mưa trung bình năm cũng tăng 3,2% vào cuối thế kỷ 21. Đi đôi với những thay đổi này, mực nước biển tại thành phố sẽ dâng cao, kéo theo nguy cơ ngập lụt cho 25,16 km2, tương ứng với 9,38% tổng diện tích thành phố vào năm 2020, và tăng lên 35,85 km2 (13,37%) vào năm 2100. Bên cạnh đó, tình trạng BĐKH sẽ đi đôi với rất nhiều những tác động tiêu cực khác như sự gia tăng bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn…
Vậy đâu là giải pháp bền vững cho vấn đề ứng phó với BĐKH? Câu trả lời chính là các giải pháp “mềm” hay giải pháp phi công trình, tập trung vào các yếu tố xã hội, chú trọng nâng cao năng lực tự thân của cộng đồng.
Có 4 nhóm giải pháp cụ thể được đề xuất: Thứ nhất là tăng cường việc cung cấp thông tin cho cộng đồng dân cư về những vấn đề liên quan đến BĐKH và trang bị kiến thức, kinh nghiệm ứng phó với BĐKH ở quy mô hộ gia đình, từng cộng đồng nhỏ cho đến những phạm vi lớn hơn. Thứ hai là nhóm giải pháp hỗ trợ sinh kế và đa dạng nguồn thu nhập cho người dân ở những vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai. Việc đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề cho một số hộ dân làm nghề biển, làm muối chắc chắn sẽ giúp họ chủ động hơn trong quá trình ứng phó và giảm thiểu thiệt hại từ thiên tai. Nhóm giải pháp thứ ba chú trọng sự tham gia của cộng đồng trong quá trình hoạch định chính sách phát triển KT-XH nói chung và kế hoạch ứng phó với thiên tai nói riêng. Cuối cùng là nhóm giải pháp tăng cường thu hút sự tham gia của cộng đồng trong các hội-đoàn thể.
BĐKH không còn là một khái niệm mông lung và trừu tượng mà thực sự đã, đang diễn ra từng ngày, từng giờ, gây ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt của đời sống KT-XH và vẫn sẽ là mối đe dọa lớn nhất của nhân loại trong tương lai. Những giải pháp công trình cũng như phi công trình bước đầu đã được gợi ý cho TP Quy Nhơn, nhưng cũng cần một lần nữa phải nhấn mạnh, không nên chỉ chú trọng thực hiện giải pháp công trình. Lộ trình đặt ra là các giải pháp công trình rất cần thiết triển khai ngay để hạn chế sớm những tác động của thiên tai, nhưng những giải pháp phi công trình cũng phải được song song thực hiện và duy trì lâu dài để đảm bảo sự thích ứng bền vững của cộng đồng. Chính vì lẽ đó, quá trình ứng phó với BĐKH thật cần sự quyết tâm, linh hoạt và nhẫn nại.
NGUYỄN VIỆT CƯỜNG
(RMIT University - Australia)