Thổ đâu chỉ là “đất”
Chữ thổ (bộ khẩu, liên quan đến miệng) có nghĩa là “nôn ra” (như trong thổ huyết [nôn ra máu], thổ tả [nôn và tiêu chảy]), “nói ra” (như trong thổ lộ).
Phổ biến hơn cả là chữ thổ trong thổ địa. Thổ (chữ cũng là bộ) nghĩa là “đất”. Địa (bộ thổ) cũng là “đất”, nhưng thường dùng với nghĩa khái quát (như trong thiên địa, địa cầu). Thổ còn là tên của một hành trong ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), tên của một vì sao trong hệ Mặt trời (sao Thổ hay Thổ tinh), tên của một âm trong bát âm (kim, thạch, ti, thổ, bào, trúc, cách, mộc).
Với nghĩa “đất”, thổ có mặt trong nhiều từ: Thổ canh, thổ công, thổ cư, thổ nhưỡng… Từ nghĩa gốc, thổ chuyển nghĩa thành “vùng đất”, “địa phương”, như trong: Thổ âm (giọng nói đặc trưng của một thổ ngữ), thổ ngữ (biến thể của một ngôn ngữ dùng ở một địa phương nhỏ hẹp), thổ phỉ (giặc phỉ vốn người địa phương, chuyên quậy phá địa phương mình), thổ sản (sản vật có nhiều ở một địa phương)…
Về từ thổ dân, thường dùng với hàm ý ít nhiều miệt thị. Từ điển tiếng Việt giảng là “người dân từ lâu đời sinh sống ở một địa phương nào đó, thường ở tình trạng lạc hậu, trong quan hệ với người dân văn minh hơn từ nơi khác đến” (Hoàng Phê chủ biên, 1997, tr.916). Thật ra, thổ dân ban đầu chỉ là “cư dân [lâu đời] của một địa phương”.
Trong bài thơ Độ Linh giang (vượt sông Gianh) viết tại Quảng Bình, cụ Nguyễn Du có hai câu quan trọng: Bắc thướng thổ dân mạc tương tị/ Táp niên tiền thị ngã đồng châu (Người dân phía Bắc, xin chớ xa lánh nhau/ 30 năm trước cũng là người cùng một châu với ta). Ta chú ý tâm thế của cụ lúc này khi đứng trước dòng sông Gianh lịch sử từng chia cắt Đàng Trong, Đàng Ngoài. Tại sao cụ lại có lời nhắn về bên kia bờ Bắc như vậy? Phải chăng đó là biểu hiện của nỗi niềm ly hương, mất gốc? Hay, những di chứng do chia cắt hai Đàng gần 150 năm vẫn còn đó, dù ở thời điểm bài thơ ra đời, đất nước ta đã là một dải thống nhất từ Bắc vô Nam? Độ Linh giang là bài thơ đáng để chúng ta suy ngẫm…
Th.S PHẠM TUẤN VŨ