Kẻ thì cũng có kẻ này
Về nguồn gốc, kẻ trong tiếng Việt có quan hệ họ hàng rất “mặn” với giả trong tiếng Hán. Giả (bộ lão) nghĩa là “người”, như trong dịch giả, diễn giả, hành giả, ký giả, tác giả… Từ này cũng có mặt trong nhiều thành ngữ Hán Việt như: Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả (thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải người dũng); trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn (người trí thích sông nước, người nhân thích núi non)… Như vậy, về nghĩa, giả chính là kẻ và ngược lại.
Về âm, kẻ và giả có mối quan hệ rất gần. Sự tương thích giữa hai phụ âm k-, gi- trong hai từ tên ta còn gặp ở giới (rau cải) ~ cải; giảo (cái kéo) ~ kéo; giáp (kẹp vào) ~ cắp, cặp, kẹp… Tương tự, sự gần gũi của -a, -e cũng có thể tìm thấy trong nhiều trường hợp: mạ, má ~ mẹ; nha, nhá ~ nhe, nhé; hạ ~ hè; trà ~ chè; xa ~ xe. Tương đương với vậy à, phương ngữ Bình Định có dẫy na ~ dẫy ne.
Cũng như giả trong tiếng Hán, kẻ trong tiếng Việt hoạt động rất… đa năng. Trước tiên, kẻ được dùng với sắc thái trung tính để chỉ “người hoặc những người như thế nào đó, nhưng không nói cụ thể là ai”, như trong: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/ Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.
Cũng có khi kẻ dùng để chỉ “người hoặc những người thế này, nói trong quan hệ đối lập với người hoặc những người thế kia”, như: Kẻ ở người đi, Kẻ ít người nhiều, Kẻ tám lạng người nửa cân, Kẻ tung người hứng.
Trong quá trình hành chức, kẻ còn được dùng với hàm nghĩa coi thường, như trong: Kẻ cắp gặp bà già, kẻ gian, kẻ thù, kẻ trộm, kẻ xu nịnh, kẻ gây rối…
Không chỉ để nói người khác, kẻ còn được dùng để nói về chính mình. Đó là khi dùng kẻ [như thế nào] này để tự xưng một cách khiêm nhường hoặc tỏ vẻ kiểu cách. Cuối truyện Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), viên quản ngục tự xưng như vậy, trong câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Không những chỉ một vài người, kẻ còn được dùng để chỉ cả một đơn vị dân cư, như trong các địa danh: Kẻ Chợ, Kẻ Mơ, Kẻ Sặt…
Th.S PHẠM TUẤN VŨ