Mộc không chỉ là “cây”
Hẳn nhiên, mộc là “cây”. Theo Lý Lạc Nghị trong “Tìm về cội nguồn chữ Hán”, mộc là “một chữ tượng hình, hình chữ giống như một cái cây, nét nghiêng hướng lên trên là cành cây, nét nghiêng hướng xuống dưới là rễ cây” (tr.436). Nghĩa gốc của mộc là cây, cây thân gỗ, như trong từ thảo mộc. Tương đương với câu Một cây làm chẳng nên non, trong tiếng Hán có Độc mộc bất thành lâm.
Nhưng mộc không chỉ là “cây”. Từ chỗ chỉ “cây thân gỗ”, từ này được dùng để chỉ nghĩa “gỗ, làm bằng gỗ”, như trong mộc bản, đồ mộc, làm mộc, nghề mộc, thợ mộc… Dụng cụ để luyện võ bằng cột gỗ, có nhiều cọc gỗ xuyên qua được gọi là mộc nhân, tức “người gỗ”.
Từ nghĩa “gỗ”, “gỗ chưa chế biến”, mộc phái sinh nét nghĩa “ở trạng thái thô sơ, chưa được gia công”, như trong chiếu mộc, gạch mộc, guốc mộc… Vải để mộc là vải để vậy mà không nhuộm. Chị em để mặt mộc tức để mặt không trang điểm. Mộc trong từ mộc mạc cũng chính là chữ mộc này. Thiều Chửu trong “Hán Việt tự điển” giảng nét nghĩa thứ 6 của chữ mộc là “chất phác, mộc mạc” (tr.336). Mộc mạc có nghĩa là “giản dị, đơn giản, giữ nguyên tính chất tự nhiên”.
Mộc còn là tên của một bộ thủ trong tiếng Hán (bộ mộc), một hành trong ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), một âm trong bát âm (thạch, thổ, kim, mộc, trúc, bào, ti, cách), một sao trong Thái Dương hệ (Mộc tinh).
Bình Định có nhiều tên gọi khác như xứ Nẫu, xứ võ và đất thang mộc, như trong nhan đề một cuốn sách của cố tác giả Vũ Ngọc Liễn là “Kẻ sĩ đất thang mộc - liệt truyện”. Theo các nhà nghiên cứu, cách gọi này bắt nguồn từ câu thơ của Phan Huy Ích: Quy Nhơn thang mộc địa/ Khu hoản ỷ khôi thạc (Quy Nhơn, đất thang mộc/ Là nơi then chốt cần bậc anh tài).
Đất thang mộc vốn là một điển cố, là nơi vua tắm gội (thang: ngâm nước nóng; mộc: gội đầu) để giữ mình thanh sạch trước khi tế trời đất, về sau chỉ nơi phát tích của một vị vua hay triều đại nào đó. Bình Định là nơi phát tích của vương triều Tây Sơn. Đây là nguồn gốc của cách gọi Bình Định là “đất thang mộc”.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ