Nguồn gốc của “man”
Về từ man điệu trong câu thơ Khèn lên man điệu nàng e ấp (Tây Tiến, Quang Dũng), sách Ngữ văn 12 (tập 1) chú thích: “Ở đây chỉ điệu nhạc, điệu múa của dân tộc thiểu số ở miền núi” (tr.88). Nhưng vì sao “man” lại chỉ “dân tộc thiểu số ở miền núi”?
Man là một từ gốc Hán. Người Hán thời cổ đại xem mình là trung tâm, là dân tộc có văn minh lễ giáo, còn bốn phía xung quanh họ là những “mọi, rợ” mông muội, không có luật pháp. Phía Bắc là rợ “Địch”, phía Nam là rợ “Man”, phía Tây là rợ “Nhung”, phía Đông là rợ “Di”. Man Di Nhung Địch là cách gọi đầy khinh miệt của người Hán đối với các dân tộc khác bên ngoài họ.
Man (cùng biến âm mán) đi vào tiếng Việt, kết hợp với di trong các tổ hợp man di, man di mọi rợ, được dùng để chỉ các dân tộc thiểu số với ý miệt thị. Những cách dùng trên bây giờ không còn phổ biến. Nhưng hiện nay, cách gọi tên sản vật của người dân tộc thiểu số theo kiểu kết hợp với yếu tố mán, mọi, tộc (như lợn mán, heo mọi, gà tộc) với sắc thái phản cảm vẫn được dùng rộng rãi. Đây là điều cần lên án, loại bỏ!
Từ nghĩa danh từ, man chuyển loại để mang nghĩa tính từ “ở trạng thái tự nhiên, chưa văn minh”, như trong man dại, man rợ, dã man… Gần đây, dã man lại được dùng với nghĩa tình thái nhấn mạnh trạng thái hết mức, tột cùng, như trong cách nói đẹp dã man, ngon dã man… “Thành ngữ hiện đại” dã man con ngan thì chủ yếu sắc thái bông đùa.
Trong tiếng Việt còn một số hình vị man gốc Hán khác. Man với nghĩa là “mười nghìn” (như trong một man, cơ man) bắt nguồn từ chữ vạn (vạn ~ man cũng như vạn ~ muôn, vãn ~ muộn).
Man trong man trá, khai man bắt nguồn từ chữ man (bộ ngôn - lời nói) nghĩa là “nói dối”.
Trong từ man mác, man bắt nguồn từ chữ man (bộ thủy - nước) nghĩa là “dáng nước mênh mông”.
Vậy còn miên man? Đây là từ gốc Hán, nghĩa gốc là “tiếng chim líu lo, tiếng nọ dính tiếng kia”. Từ đó mới phái sinh nghĩa “tiếp nối không dứt, hết cái này đến cái kia, hết chuyện này tới chuyện nọ” .
Th.S PHẠM TUẤN VŨ