Liên ngành Công an - Giáo dục An Lão:
Tăng cường phòng chống vi phạm pháp luật trong học sinh
Cuối tháng 3 vừa qua, lãnh đạo CA huyện, Trường THPT An Lão, Trường THPT số 2 An Lão, Trung tâm Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp huyện, Phòng GD&ĐT huyện An Lão cùng các trường trực thuộc Phòng đã tổ chức ký kết, triển khai kế hoạch thực hiện quy chế phối hợp liên ngành về công tác đảm bảo ANTT trong trường học và các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện năm 2013.
Kiềm chế hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật
Theo thống kê, tình hình học sinh vi phạm pháp luật về ANTT, trật tự ATGT trên địa bàn huyện An Lão thời gian vừa qua, đặc biệt là trong quý I.2013 là đáng báo động. Trong quý I.2013, có 12/25 vụ việc vi phạm ANTT trên địa bàn huyện là do đối tượng vị thành niên, học sinh gây ra. Đáng lưu ý là tính chất, hậu quả các vụ vi phạm do học sinh gây ra ngày một nghiêm trọng. Trong số 25 vụ việc nói trên, có 3 vụ được xác định là phạm pháp hình sự (có dấu hiệu tội phạm) thì đã có 2 vụ/4 đối tượng là học sinh. Phần lớn các đối tượng vi phạm trên đều có học lực yếu hoặc trung bình, môi trường giáo dục gia đình chưa tốt, có những đối tượng tái phạm nhiều lần. Điển hình như vụ 3 học sinh trường THPT An Lão trộm xe mô tô tại thị trấn An Lão vào đêm 12.3.2013, trong đó có một em đã nhiều lần có các vi phạm khác.
Nguyên nhân khách quan của tình trạng gia tăng vi phạm pháp luật trong học sinh là do nhận thức các em còn hạn chế, tâm sinh lý lứa tuổi vị thành niên chưa ổn định, thích thể hiện mình; tác động của tình hình ANTT trong nước, trong tỉnh; ảnh hưởng từ mặt trái của các phương tiện truyền thông kỹ thuật số (internet, điện thoại di động…). Tuy nhiên, tại Hội nghị triển khai kế hoạch thực hiện quy chế phối hợp liên ngành trên, đại diện các cơ quan liên quan cũng đã thống nhất cao việc cần chỉ rõ những yếu tố chủ quan, coi đây là nguyên nhân, là điểm tồn tại cơ bản mà các ngành phải nhìn nhận một cách trung thực, thấu đáo thì mới có thể can thiệp được bằng các giải pháp đúng hướng, đồng bộ.
Gia đình - nhà trường - xã hội lơ là, lỏng lẻo
Nguyên nhân chủ quan của tình trạng học sinh vi phạm pháp luật được hội nghị phân tích sâu ở các khía cạnh gia đình - nhà trường - xã hội và sự phối hợp giữa những nhân tố đó.
Từ phía gia đình, nguyên nhân được chỉ ra là không ít bậc phụ huynh chỉ tập trung chăm lo phát triển kinh tế gia đình, việc quan tâm giáo dục con em trở thành thứ yếu, phó mặc cho nhà trường. Các trường hợp này thường rơi vào những gia đình gặp hoàn cảnh éo le (cha mẹ ly thân, ly dị, đi làm ăn xa, thường xuyên phải vắng nhà, nhờ ông bà hoặc người khác không đủ điều kiện, khả năng quản lý…), hoặc gia đình khá giả nhưng lại thiếu kỹ năng quản lý, giáo dục con cái.
Ở góc độ nhà trường, một số trường chưa chỉ đạo đúng mức công tác phòng chống vi phạm trong học sinh, giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức tự quản của trường chưa quản lý tốt học sinh. Mặt khác, học sinh không tự giác, không mạnh dạn báo cáo, phản ảnh tình hình vi phạm của bạn bè trong lớp, trong trường cho thầy cô vì sợ bị trả thù. Bệnh thành tích trong giáo dục cũng là một nguyên nhân chủ quan. Do chất lượng đầu vào thấp, một số em mất kiến thức cơ bản dẫn đến chán học, phản ứng bằng cách tụ tập nhau, vi phạm; một số trường hợp học sinh vi phạm thì nhà trường lại xuê xoa khi xử lý vì sợ ảnh hưởng thành tích thi đua…
Từ phía xã hội, một số địa phương chủ quan, thiếu quan tâm, không nắm được diễn biến vi phạm của đối tượng vị thành niên, học sinh ở địa bàn mình; hoặc nắm được nhưng lúng túng trong việc quản lý, giáo dục; có biểu hiện đùn đẩy trách cho nhau giữa các ngành, đoàn thể, nhất là ỷ lại ngành giáo dục, CA. Việc gọi hỏi, giáo dục, cảm hóa đối tượng cá biệt ở khu dân cư nhưng chưa được làm thường xuyên nên hiệu quả răn đe, phòng ngừa chưa cao.
Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội cũng chưa có những quy định mang tính ràng buộc, từ đó chưa triển khai được những việc làm cụ thể, có tính trách nhiệm cao đối với từng ngành.
Từ những phân tích, đánh giá trên, lãnh đạo CA và ngành giáo dục huyện An Lão đã thống nhất ký kế hoạch liên ngành, khắc phục những yếu kém của thời gian qua, tập trung thực hiện nhiều giải pháp phối hợp, trong đó trọng tâm là 4 giải pháp cơ bản: Phối hợp trong công tác trao đổi, cung cấp thông tin; phối hợp giáo dục, tuyên truyền, vận động; phối hợp trong quản lý, giáo dục đối tượng vị thành niên, học sinh; phối hợp đảm bảo ANTT trong các hoạt động trường học và cơ sở giáo dục. Trong mỗi giải pháp đều có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, từng đơn vị về lực lượng, quy định thời gian hoàn thành, cơ chế giám sát, kiểm tra…
Nhiều ý kiến đánh giá kế hoạch liên ngành lần này được chi tiết hóa, có tính thực tiễn hơn kế hoạch liên ngành đã ký kết năm 2003.
TRẦN CÔNG TỰ