Ðầm đìa có phải là từ láy?
Trong cảm nhận của nhiều người, đầm đìa là một từ láy. Thực tế, “Từ điển từ láy tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học cũng ghi nhận mục từ đầm đìa và giảng: “(Nước mắt, mồ hôi) nhiều đến mức chảy ròng ròng (NXB Giáo Dục, 1995, tr.119).
Tuy nhiên, theo học An Chi trong “Chuyện Đông chuyện Tây”, “đây là một từ ghép đẳng lập gồm hai danh từ đồng nghĩa” (tập 1, NXB Tổng Hợp TP.HCM, tr.268). Đầm đìa không gì khác là cái đầm và cái đìa. Đầm là “khoảng trũng to và sâu ở giữa đồng để giữ nước”. Ở Bình Định, Thị Nại, Châu Trúc là hai đầm lớn và nổi tiếng. Đìa là “chỗ trũng nhỏ ở giữa đồng, có bờ để giữ nước và cá”.
Đầm và địa là hai dạng địa hình chứa nước. Nói X đầm đìa tức là X nhiều như nước đầm nước đìa, một cách nói phóng đại. Đây cũng là lý do mà chỉ những dạng vật chất ở thể lỏng (như mồ hôi, nước mắt, máu) mới có thể kết hợp với đầm đìa.
Xét về nguồn gốc, đầm đìa là một từ Việt gốc Hán. Đầm bắt nguồn từ đàm (bộ thủy - nước), nghĩa là “đầm nước”. Thành ngữ long đàm hổ nguyệt nghĩa gốc là “đầm rồng hang cọp”, nghĩa chuyển chỉ những chốn nguy hiểm. Trên đường đi sứ Trung Hoa, cụ Nguyễn Du qua đầm Đào Hoa ở tỉnh An Huy và có bài “Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích”, tạm dịch: Dấu cũ của Lý Thanh Liên (tức Lý Bạch) ở đầm Đào Hoa.
Đìa là âm xưa của trì (bộ thủy), nghĩa là “cáo ao”. Mối quan hệ ngữ âm đ ~ tr của đìa ~ trì ta còn gặp trong đồ ~ trò; đục ~ trọc. Mối quan hệ i ~ ia, ta cũng gặp trong nhiều trường hợp: bi ~ bia, ly ~ lìa. Thanh Trì là vùng trũng với nhiều ao, đầm ở đồng bằng Bắc bộ.
Như vậy, đầm đìa không phải được tạo bằng phương thức láy.
Th.S PHẠM TUẤN VŨ