Thủy tiên qua giông bão
* Truyện ngắn của Dương Hằng
Ba dắt tôi về xóm Điều, tần ngần trước cánh cổng nhà đã lên rêu. Cánh cổng nhà im ỉm khóa chặt những ký ức. Ngôi nhà xập xệ, lớp ngói nhuốm màu thời gian phơ phếch. Ba năm về lại mà như chiêm bao. Mặt trời trở về với núi sau những chuyến đi hoang trên những vùng đất có hoa thơm cỏ lạ không đủ làm mặt trời nguôi nhớ núi. Bàn tay ba run rẩy nắm chặt lấy bàn tay tôi. Ký ức run run trên giọt lệ chảy tràn hai bên má. Ánh mắt tôi mắc lại ở khóm hoa thủy tiên trước nhà e lệ dưới gốc cây sung cảnh ba mua về từ dạo tôi lên bảy. Thủy tiên vẫn nở, hồng thắm và thanh khiết. Những cánh hoa mịn, mỏng như bờ môi thiếu nữ, vẫn vươn mình qua dãi dầu sương mây khói nắng. Ba vội vã thả ba lô trên vai xuống, lục tìm chiếc chìa khóa cổng. Ba kéo tay tôi tiến lại gần những khóm hoa thủy tiên. Ba khóc trước một nhành hoa…
Mẹ mê hoa thủy tiên như người đàn ông mê một điệu Huế ngọt tình. Mẹ trồng một luống thủy tiên trước nhà. Khóm lá dày, xanh thẫm tua tủa bao quanh những đọt cây thủy tiên vươn mình dưới nắng. Thân cây mềm, dễ dàng bị quật ngã trong một đêm mưa. Mùa bão về, nước từ sông tràn qua cổng, luống hoa thủy tiên mấy ngày dầm trong nước, bị úng dần, nhũn bấy. Mẹ buồn như người ta mất một vụ mùa.
Gia đình tôi là dân nửa thị, bên này cây cầu ngó sang bên kia là cánh đồng cò trắng muốt. Nhờ vậy mà tôi có hai khoảng trời ấu thơ. Một là bên này sông với ký ức về mẹ, về ba lần khiêng chiếc chõng tre ra bờ sông hóng gió, ngắm trăng hay theo ba dọc khúc sông này đi quăng chài, đánh cá. Hai là bên kia sông với lần bắt cào cào, châu chấu cùng lũ bạn, thả bò trên những triền đê hun hút gió. Nhà tôi nằm xiêu vẹo bên này con sông ngót hai mươi năm trời. Cách đây độ mười năm về trước, quanh nhà là những đám đất bỏ hoang tôi thường đào một hố nhỏ, chôn những viên sỏi xuống lớp đất mỗi lần có nỗi buồn khó nói. Trên mảnh đất hoang là lổm chổm những túp lều mọc lên như phận người lay lắt hay những đám hoa dại bùng nhùng cao quá nửa thân người không ai phá. Có lần cùng mẹ chơi trò trốn tìm, tôi tìm đến rậm hoa dại ấy làm nơi ẩn nấp. Chỉ đợi một mùa lũ về, hoa trôi đi miền vô định.
Chớp mắt cái là nhà cao tầng mọc lên như nấm ven sông, choán hết cả những đám đất hoang ngày xưa tôi chôn giấu tủi buồn ở đó. Ngôi nhà ngói hai gian thấp tè, lọt thỏm vào mái che cao ngút, những chung cư, nhà máy đang thi công. May mà còn có cây cầu và khúc sông ngầu đục phù sa, để lần trở về này, ngó sang bên kia sông, vẫn thấy tuổi thơ mình chốn ấy.
Mẹ tôi mất trong cơn đau tim dữ dội. Hình ảnh mẹ ghìm chặt lấy tay tôi, không rên rỉ mà đôi mắt quặn xiết nỗi đau trước lúc ra đi ám ảnh trong cả những giấc mơ sau này. Mẹ mỏng manh như cánh hoa thủy tiên. Nụ cười của mẹ ngày ấy có khác gì thủy tiên trong một ngày héo nắng. Cơn đau của mẹ đến bất ngờ, khi ấy tôi mười hai tuổi. Mẹ gắng gượng gọi được tên tôi thì gục ngay bậu cửa. Mẹ giữ bàn tay tôi lại như đoán biết được đó là cơn đau cuối cùng của cuộc đời mình. Mắt mẹ trân trân nhìn tôi đầy ẩn ức và day dứt. Cho đến khi bàn tay mẹ buông thõng, tôi vội lao đi tìm ba. Xung quanh nhà chỉ là những bãi đất hoang, không một ngôi nhà cho tôi cầu cứu. Những bãi đất hoang…những bãi đất hoang… Bỗng nhiên ngày ấy tôi ghét cái bãi đất hoang rộng đến khôn cùng ấy ghê gớm. Bước chân nhỏ bé kịp đi hết đất hoang, tìm được ngôi nhà gọi người giúp đỡ, thì mẹ đã chạm tới thiên đường. Không được gặp mẹ lần cuối cùng, đó là nỗi đau rong ruổi tâm can ba bao năm nay. Ba yêu mẹ lắm. Ba rời xóm Điều sau giỗ đầu của mẹ như cái cách để ba quên đi một nỗi đau. Cảm giác mỗi ngày thức giấc, trong sương khói hoang hoải vẫn chờn vờn hơi thở và nụ cười quen thuộc của mẹ, ba không tin nổi vào sự thật, mẹ đã thực sự rời xa.
Cuối cùng ba cũng đủ can đảm để trở về xóm Điều - xóm ngày xưa lác đác vài phận người như những đứa con hoang. Đi qua bóng đêm mặt trời lại trở về với núi. Mẹ đón ba con tôi về bằng sắc thắm mặn mà của cánh thủy tiên. Hình như, núi đã mòn mỏi đợi chờ mặt trời về sưởi ấm những quạnh hiu, tăm tối. Tôi mếu máo:
-Ba đừng khóc nữa, mẹ vẫn ở đây mà. Con khóc không phải vì xa mẹ, con khóc vì ba khóc đấy thôi.
Ba đưa tay quệt vội nước mắt:
-Ừ, về với mẹ nên ba mừng quá mà.
Ba vẫn thường dối tôi và dối lòng mình hơn một lần như thế.
Chuyện ba con tôi trở về người xung quanh ngó nghiêng, ánh nhìn lạ hoắc lạ huơ cứ như ba và tôi là những kẻ tha phương, vô tình tìm được quán trọ tạm bợ ven đường bị bỏ hoang nên ghé vào che trú tạm. Tôi bước qua cầu, tìm về nơi ấu thơ không một đứa bạn nào niềm nở đón về.
Tôi và ba dọn dẹp lại nhà cửa cho gọn gàng. Bức tường lởm chởm vài vết nứt hoắc huơ, chỗ vỡ ra vì bão táp, nắng mưa. Gian ngoài, gian trong ba đều treo ảnh mẹ chỗ thuận tầm mắt nhất. Mẹ đẹp, đôi môi đỏ như tô son. Ảnh chụp mẹ ngồi trầm tư nhìn đóa thủy tiên, ngón tay quấn hờ lọn tóc mềm như mây. Ba không có ý định sửa sang lại ngôi nhà cho khang trang, mới mẻ. Ba bảo:
-Sợ mẹ về không quen mùi mới. Ba cũng sợ xây lại nhà, không còn cảm giác thân thuộc của ngày xưa.
Một buổi chiều, tôi và ba từ chợ về, trông thấy một người phụ nữ mê mải bên khóm hoa thủy tiên trước nhà. Mái tóc buông dài, và dáng ngồi khúm núm ấy khiến bàn chân tôi nhũn ra và khự nự không bước nổi. Đến khi người phụ nữ quay lại, tôi mới chợt tỉnh cơn mơ. Ba cũng mất mấy giây mới định thần lại được tia chớp vừa ngang qua. Người phụ nữ bảo mê hoa thủy tiên, mấy năm rồi mới được gặp lại, nên mới đẩy cổng vào ghé thăm. Người phụ nữ hình như đi du lịch bụi. Ba mời cô vào nhà uống nước, cô mải mê kể về những cung đường đã đi qua với bao kỳ thú. Nhưng điểm dừng chân bên khóm thủy tiên này khiến cô xúc động nhất.
-Ở ngoại ô này, vẫn tìm được một bông thủy tiên, thì thật là hiếm hoi anh ạ. Chắc chị nhà anh mê hoa thủy tiên và khéo chăm lắm mới giữ được nó tới tận giờ. Ngày xưa ở làng em nhà ai cũng có một khóm thủy tiên bám ngay dưới chân tường rào. Giờ thì…
Ba tôi chỉ mỉm cười hiền hậu. Không một bàn tay nào chăm bẵm thủy tiên suốt ngần ấy năm vẫn tự mọc tự trổ bông. Trong ánh mắt ba chứa một đức tin mạnh mẽ về sự hiện diện mẹ trong cánh hoa như nhắn nhủ điều gì đó.
Người phụ nữ khoác ba lô nặng trịch lên vai, chào tạm biệt hai ba con tôi để đi tiếp hành trình dang dở. Lúc tới cổng, người phụ nữ ngoái đầu lại, ánh mắt xa xăm, gợn tiếc khóm hoa thủy tiên.
Mây đen giăng kín, bầu trời bỗng tối sầm lại. Trời nổi gió. Mưa bất ngờ ập tới xối xả lộp độp vào mái ngói. Ba nhìn hoang hoải thương đóa thủy tiên rệu rã dưới mưa. Nghe có tiếng người gọi cổng, ba đội tạm chiếc mũ cối chạy ra. Đó là người phụ nữ hồi chiều, ướt như chuột lột và bị đau ở chân…
- Em có thể ở đây cho tới khi mưa ngớt?
Ba không nói gì, lụi cụi lục ngăn tủ lấy cuộn bông y tế, rồi bảo tôi đi lấy giúp chiếc khăn ướt sạch. Ba tỉ mẩn lau nhẹ vết thương. Người phụ nữ bẽn lẽn, ngại ngùng. Tiếng mưa ngoài kia như đã ngủ. Căn nhà yên ắng. Hình như là tổ ấm lên hương…
- Cô ở đây, ngày mai hẵng đi. Khuya rồi!
Cuối cùng người phụ nữ cũng chịu ở lại với căn nhà. Ba kê chiếc chiếu đơn ra gian ngoài ngủ. Tôi nằm cạnh cô, hít hà mùi ngai ngái của mưa, của nắng lẫn vào mùi ngòn ngọt con gái ngưỡng ba mươi. Cô vuốt tóc tôi, thỏ thẻ:
-Mẹ cháu đâu?
-Mẹ cháu mất rồi cô ạ.
-Cô xin lỗi.
-Mẹ cháu mất rồi, nhưng hoa thủy tiên vẫn nở từ dạo ấy đến giờ.
Tiếng ba thở dài vọng vào gian trong như nén cả mùi hương của đêm. Hình như ba nghe thấy những gì tôi và cô vừa nói. Và hình như ba nhớ mẹ.
Cô đã đi rồi, trời tảng sáng. Cô giống mẹ quá, khiến ba và tôi ngỡ rằng mẹ chưa hề mất. Ba con tôi tỉnh giấc khi nồi xôi vẫn còn ấm lắm. Ba nhìn ra phía cổng như cố kiếm tìm một chiếc bóng xa xôi. Mẹ vẫn ở đâu đây, bên trong cánh cổng nhà, ẩn hiện trong màu hoa thủy tiên thắm nở. Mẹ vừa phái một thiên thần xuống, có lẽ là, để gửi một chút hơi ấm cho ngôi nhà bớt lạnh. Trong ánh mắt kia, tôi kịp nhận ra rằng, ba còn yêu mẹ nhiều lắm. Chết không có nghĩa là mất đi vĩnh viễn. Như luống thủy tiên kia qua giông gió, bão bùng, vẫn gượng dậy mạnh mẽ sắc tươi. Cái chết thực sự chỉ khi trong tim người ở lại, thôi không còn nhung nhớ, thương yêu…
D.H