Tiến tới thẻ công dân điện tử
Sáng nay, 12.3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Căn cước công dân. Tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Văn Nam thừa ủy quyền Chính phủ đã trình bày Tờ trình về dự án Luật này.
Theo đó, tới đây sẽ có một số thay đổi quan trọng trong việc cấp Chứng minh nhân dân cho công dân. Để bảo đảm đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, số chứng minh nhân dân được quy định là số định danh cá nhân được xác lập từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, là dãy số tự nhiên gồm 12 số, được cấp cho mỗi công dân Việt Nam và không lặp lại ở người khác, dùng để xác định dữ liệu về căn cước và dữ liệu khác về công dân. Đây chính là chìa khóa giúp khai thác các thông tin về công dân trong cơ sở dữ liệu căn cước công dân cũng như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mà không phải yêu cầu công dân xuất trình nhiều giấy tờ không cần thiết.
Mặt khác, nếu như trước đây, số chứng minh nhân dân sẽ thay đổi khi công dân thay đổi nơi thường trú từ tỉnh này sang tỉnh khác nên rất khó quản lý vì có thể lặp lại ở người khác, thì nay dự thảo Luật quy định số chứng minh nhân dân là số định danh cá nhân và gắn với riêng công dân đó, không lặp lại ở người khác. Trường hợp đổi, cấp lại chứng minh nhân dân thì số chứng minh nhân dân vẫn giữ đúng theo số ghi trên chứng minh nhân dân đã cấp lần đầu.
Thời hạn sử dụng của chứng minh nhân dân cũng có thay đổi. Dự thảo Luật quy định thời hạn sử dụng của chứng minh nhân dân tương thích với từng độ tuổi nhất định; trong đó, thời hạn sử dụng chứng minh nhân dân kể từ ngày cấp là 10 năm đối với người từ 15 tuổi đến dưới 25 tuổi, 15 năm đối với người từ đủ 25 tuổi đến dưới 55 tuổi. Người từ đủ 55 tuổi trở lên thì không xác định thời hạn.
Theo Thứ trưởng Bùi Văn Nam, sự thay đổi này phù hợp hơn, do ở mỗi độ tuổi khác nhau thì mức độ thay đổi về đặc điểm nhân dạng của người được cấp chứng minh nhân dân là khác nhau.
Liên quan đến người được cấp chứng minh nhân dân, đáng chú ý là dự thảo Luật không hạn chế người làm thủ tục cấp chứng minh nhân dân, kể cả người đang bị tạm giữ, tạm giam; đang chấp hành án phạt tù; đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình. Quy định này nhằm bảo đảm quyền được cấp chứng minh nhân dân của công dân để phục vụ giao dịch, đi lại…
Theo Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, dự án Luật này sẽ được Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 7 và xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8.
- Tính đến hết năm 2013, toàn quốc đã làm thủ tục và cấp được 68.124.934 Chứng minh nhân dân, đạt 96,6% so với tổng số người trong diện cấp chứng minh nhân dân.
- Chứng minh nhân dân là thẻ căn cước của công dân Việt Nam và là giấy tờ tùy thân duy nhất có giá trị chứng nhận căn cước của người từ 15 tuổi trở lên.
Trên chứng minh nhân dân có thông tin về nơi thường trú của công dân và do đó về lâu dài, có thể nghiên cứu tiến tới dùng chứng minh nhân dân thay cho sổ hộ khẩu. Trên chứng minh nhân dân cũng có thông tin về họ và tên khai sinh, họ và tên gọi khác, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc.
Các thông tin này trên chứng minh nhân dân được tích hợp từ giấy khai sinh và các giấy tờ liên quan khác nên công dân có thể sử dụng chứng minh nhân dân để chứng minh các thông tin này trong giao dịch, đi lại mà không cần phải mang các giấy tờ khác liên quan. Trên chứng minh nhân dân có bộ phận điện tử lưu trữ một số thông tin cơ bản về căn cước và thông tin khác từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của người được cấp chứng minh nhân dân để làm cơ sở tích hợp các thông tin cần thiết trên chứng minh nhân dân theo hướng trong thời gian tới đây là thẻ công dân điện tử.
(Theo Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Căn cước công dân)
. Theo ANH PHƯƠNG (SGGP)