Để đảm bảo an toàn các công trình thủy lợi:
Thực hiện đồng bộ các khâu sửa chữa, nâng cấp và quản lý vận hành
Ông Nguyễn Hữu Vui
Tỉnh ta có hệ thống các công trình thủy lợi (CTTL) hầu hết được xây dựng từ lâu nên nhiều công trình đã xuống cấp cần được sửa chữa. Bên cạnh đó, công tác quản lý, vận hành các hồ chứa nước cũng còn nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phục. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Vui, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT về vấn đề này.
* Xin ông cho biết hiện trạng các CTTL trên địa bàn tỉnh?
- Tỉnh ta hiện có 161 hồ chứa nước lớn nhỏ với tổng dung tích 583 triệu m3, trong đó, có 18 hồ chứa nước có dung tích từ 3 triệu m3 trở lên; 30 hồ chứa có dung tích từ 1 triệu m3 đến nhỏ hơn 3 triệu m3; 113 hồ chứa có dung tích nhỏ hơn 1 triệu m3. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có hơn 107 đập dâng trên sông suối, 96 trạm bơm, 1.650 km kênh mương thủy lợi, cung cấp nước tưới cho trên 100 ngàn héc-ta lúa, hoa màu hàng năm.
Thời gian qua, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, tỉnh ta đã đầu tư xây dựng, nâng cấp nhiều CTTL quan trọng, phục vụ tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, phần lớn các hồ chứa ở tỉnh ta đã được xây dựng khá lâu trong điều kiện kỹ thuật hạn chế, qua thời gian sử dụng thường xuyên chịu tác động của thiên tai, bão lũ, nên đã có khoảng 40 hồ chứa bị xuống cấp, hư hỏng. Trong đó có 14 hồ chứa bị hư hỏng nặng cần sửa chữa cấp bách. Để tu sửa, nâng cấp những hồ chứa nước này phải cần hàng trăm tỉ đồng. Số kinh phí trên là quá lớn, nằm ngoài khả năng của địa phương.
Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 222 km đê sông, đê biển nhưng mới chỉ có chừng 40% trong số đó được nâng cấp, gia cố. Đặc biệt, sau mùa mưa lũ các năm trước, có nhiều đoạn đê kè bị sạt lở nặng, nhưng do khó khăn về kinh phí nên chính quyền các địa phương và người dân chỉ khắc phục tạm thời để phục vụ sản xuất.
* Còn về công tác quản lý, vận hành các hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh, thưa ông?
- Công tác quản lý, vận hành hồ chứa ở tỉnh ta có nhiều hạn chế, bất cập. Công ty TNHH Khai thác CTTL Bình Định được đánh giá là đơn vị quản lý, vận hành các hồ chứa nước khá bài bản, chặt chẽ, nhưng cũng mới chỉ có một số hồ chứa đã được bố trí cán bộ trực tiếp quản lý đạt yêu cầu. Các huyện quản lý 146 hồ chứa, trong đó có 34 hồ dung tích từ 1-10 triệu m3, nhưng chưa có cán bộ kỹ thuật; 112 hồ dung tích dưới 1 triệu m3 có cán bộ quản lý chưa được tập huấn về công tác quản lý hồ.
Việc lập tờ khai quản lý, kiểm định an toàn hồ đập theo quy định của Bộ NN-PTNT cũng chưa được chú trọng. Từ năm 2008 đến nay, mới chỉ có 83/161 hồ chứa được lập tờ khai quản lý an toàn hồ đập. Công tác lập phương án phòng chống lụt bão (PCLB) cho vùng hạ du các CTTL theo hướng dẫn tại Thông tư số 33/2008 của Bộ NN-PTNT cũng chưa được quan tâm đúng mức. Hiện mới chỉ có 45/161 hồ chứa có phương án PCLB cho công trình đầu mối, các hồ chứa còn lại chưa có phương án PCLB riêng mà chỉ được nêu trong phương án PCLB chung của địa phương. Điều đáng quan ngại nữa là nhiều công trình hồ chứa giao cho địa phương, HTXNN quản lý nhưng không được cấp có thẩm quyền giao trách nhiệm quản lý bằng văn bản; hoặc không có biên bản giao nhận công trình cụ thể. Phần lớn các hồ chứa do địa phương quản lý hầu như không có hệ thống quan trắc, không ghi chép nhật ký và ngành chức năng cũng không thể liên lạc trực tiếp với các công trình đầu mối…
* Vậy, theo ông tỉnh ta cần thực hiện những giải pháp nào nhằm khắc phục hạn chế, tồn tại nói trên?
- Theo tôi, để đảm bảo an toàn các CTTL nói chung, các hồ chứa nước nói riêng, cần thực hiện đồng bộ giữa việc nâng cấp, sửa chữa và quản lý vận hành. Đối với việc nâng cấp, sửa chữa các CTTL, năm nay, ngành Nông nghiệp tỉnh chủ yếu tập trung thực hiện Dự án nâng cấp hệ thống đê và trồng rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu tại vùng đầm Thị Nại do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Hiện các đơn vị thi công đang nỗ lực đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu cuối năm nay sẽ hoàn thành giai đoạn 1 của Dự án này. Bên cạnh đó, lập thiết kế phê duyệt giai đoạn 2 của dự án để thực hiện trong năm 2015 và 2016.
Phần lớn các hồ chứa do địa phương quản lý hầu như không có hệ thống quan trắc, không ghi chép nhật ký và ngành chức năng cũng không thể liên lạc trực tiếp với các công trình đầu mối…
Ngoài ra, chúng tôi còn tập trung lập các tiểu dự án của Dự án Phát triển nông thôn tổng hợp miền Trung giai đoạn 2 với tổng kinh phí gần 400 tỉ đồng, phấn đấu hoàn thiện dự án đầu tư trình cho Ngân hàng Phát triển châu Á xem xét, thống nhất phê duyệt, để triển khai thực hiện trong năm 2015-2016. Mặt khác, lập dự án đầu tư xây dựng kênh tưới Thượng Sơn (lấy nước từ hồ thủy điện An Khê để tưới cho 3.500 ha cây trồng các xã phía nam sông Côn của huyện Tây Sơn) trình UBND tỉnh phê duyệt. Các địa phương cũng đã và đang sử dụng nguồn vốn an toàn hồ chứa và nguồn vốn cấp bù thủy lợi phí để nâng cấp, sửa chữa các CTTL bị hư hỏng, xuống cấp.
Về việc khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, vận hành các hồ chứa nước, theo tôi, cần phải kiểm tra, rà soát lại tất cả các CTTL, có kế hoạch tổ chức đào tạo các chức danh và tổ chức bộ máy quản lý các hồ chứa nước nhỏ để đảm bảo an toàn hồ đập theo Thông tư số 40/211 của Bộ NN-PTNT. Bên cạnh đó, khôi phục lại thông số kỹ thuật các hồ chứa nước, tạo ngân hàng dữ liệu phục vụ công tác quản lý, vận hành; nâng cao năng lực quản lý hồ đập của các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh, huyện.
Về phía ngành Nông nghiệp tỉnh, chúng tôi đang lập kế hoạch, danh sách cán bộ kỹ thuật cần được đào tạo gửi Bộ NN-PTNT để Bộ có kế hoạch đào tạo chuẩn, trên cơ sở đó chúng tôi sẽ cử cán bộ đi học, để về tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, vận hành các hồ chứa nước cho cán bộ quản lý thủy nông tại các địa phương. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ tranh thủ nguồn vốn của Dự án quản lý thiên tai để thực hiện phần việc nói trên.
* Xin cảm ơn ông!
PHẠM TIẾN SỸ (Thực hiện)