Vùng cao khát nước sinh hoạt
Mới đầu mùa khô, nhiều xã vùng cao trong tỉnh đã “khát” nước sinh hoạt trầm trọng. Chuyện đưa nước về làng trở thành bài toán nan giải cho cả chính quyền và người dân nơi đây.
Mí H’Rát (thôn K2, xã Vĩnh Sơn) múc từng can nước tại giếng nhỏ ven ruộng.
“Tê liệt” hệ thống nước tự chảy
Từ trước Tết Nguyên đán đến nay, thôn Hà Giao, xã Canh Liên, huyện Vân Canh còn duy nhất một hệ thống nước tự chảy trước UBND xã - điểm thấp và gần nguồn nước nhất - hoạt động. Nguồn nước này cũng chỉ đủ phục vụ ăn uống, nấu nướng cho hơn 300 người ở thôn Hà Giao và khoảng 200 thầy trò Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Canh Liên. Tình trạng “khát” nước sinh hoạt cũng xảy ra ở nhiều nơi của xã vùng cao này, như thôn Kon Lót, làng Cát, Canh Tiến…
Anh Đinh Hải Biên, 36 tuổi, người thôn Hà Giao, thở dài khi nhắc đến chuyện nước: “Mọi năm, những tháng cao điểm về khô hạn (tháng 6, 7), nước vẫn về làng đủ để nấu nướng, ăn uống. Năm nay, mới đầu mùa nắng đã chẳng thấy nước đâu”.
Trong khi đó, người dân xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh cũng bị thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Ông Đinh Ply, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Sơn, nhẩm tính: “80% các bể chứa ở 3 làng K2, K3, K8 không có nước. Đến giờ, chỉ thôn K4 nằm ở vị trí thấp nhất của xã có khoảng 50% số bể còn nước chảy về, ngặt nỗi đầu nguồn của K4 lại thuộc khu canh tác lúa nước của thôn K3 nên nguồn nước cũng không đảm bảo vệ sinh”.
Nằm ở phía đồng bằng, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thạnh cũng khốn đốn vì khan hiếm nước sinh hoạt. Cách đây 3 tháng, 7 hệ thống nước tự chảy của thôn M9, M10 - hai thôn cao nhất xã và có 100% đồng bào Bana sinh sống - đã không còn nước. Trong khi đó, hơn 2/3 số giếng trên địa bàn xã đã khô kiệt từ cả tháng nay. Hai hôm trước, trong một ngày mưa do ảnh hưởng của đợt không khí lạnh, chứng kiến cảnh người dân hối hả hứng những giọt nước trời, chúng tôi càng thấu hiểu chuyện “khát” nước ở đây. Chị Đinh Thị Đuyên, 37 tuổi, ở thôn M9, nói giọng buồn buồn: “Hôm trước, trời lắc rắc mấy hột, giờ thì mưa dài hơn nhưng chẳng đủ thấm vào đất. Cây cỏ cháy héo hết rồi, nắng vài bữa nữa, người cũng héo theo”.
Muôn kiểu tìm nước
Mặt trời đã xuống núi, nhưng mí H’Rát, 56 tuổi, ở thôn K2, xã Vĩnh Sơn, vẫn giục con trai đi tìm nước. Cơn mưa lâm râm trong ngày khiến mí hào hứng hướng về những bể chứa với hi vọng nước đã về. Nhưng đợi mãi mà chẳng có giọt nước nào rơi, mí chuyển hướng về cái giếng nhỏ, nằm cạnh khu ruộng của thôn.
Chính quyền các địa phương đang tiến hành nhiều hoạt động để phần nào giải hạn nước sinh hoạt cho bà con. “Xã đang khảo sát để tìm nguồn nước mới dẫn về 2 điểm thiếu nước trầm trọng là làng Hà Giao, Kon Lót; làm đập thủy lợi ở Canh Tiến để dẫn nước về làng Cát. Thời gian tới, xã sẽ vận động bà con nạo vét các giếng cũ còn nước, hướng dẫn cách lọc phèn để có nguồn nước tạm”, ông Trần Xuân Lợi, Phó Chủ tịch UBND xã Canh Liên, cho biết.
Trong khi đó, theo quyết định của UBND huyện Vĩnh Thạnh về ứng phó với hạn hán trong sản xuất và dân sinh năm 2013, từ tháng 5 đến tháng 10, xã Vĩnh Sơn sẽ hỗ trợ mỗi người trong gia đình thiếu nước không quá 20 lít nước/ngày. Đồng thời, xã sẽ huy động các nguồn vốn đầu tư các công trình nước sinh hoạt cho người dân. Còn xã Vĩnh Hòa cũng đang xin kinh phí của huyện đào thêm 3 giếng nước phục vụ hai thôn “khát” nhất là M9, M10.
Theo lời mí H’Rát, giếng này có từ rất lâu, để phục vụ cho tưới tiêu ruộng đồng. Phải mất hơn nửa giờ đồng hồ, hai mẹ con mới đưa được 6 can nước từ ruộng lên tới đường lớn để chuyển về nhà. Hỏi mí về sự an toàn của nguồn nước này, mí chỉ cười, bảo không biết, có nước để dùng đã là niềm vui lớn.
“Do thiếu nước, bà con thường ở “nhà ruộng” nhiều hơn ở “nhà làng”. Phần lớn các khu ruộng đều thấp, họ thường khoét một hố nhỏ để có nước sử dụng. Nguồn nước phục vụ các nhu cầu thiết yếu của người dân đều dựa vào hồ A. Một số hộ dân có điều kiện đã chủ động khoan giếng với chi phí lớn để phục vụ cho gia đình”, ông Đinh Ply cho biết.
Ở làng K3, xã Vĩnh Sơn, ngoài các hộ dân người Kinh, nhà bà Đinh Thị Gluônh, 42 tuổi, là hộ người Bana duy nhất đào được giếng. Mất nửa tháng để thuê người đào giếng sâu 26m, bà phải trả hơn 15 triệu đồng. “Không biết giếng có đủ nước dùng khi trời tiếp tục khô hạn không, nhưng dẫu sao gia đình tôi vẫn may mắn, chứ nhiều nhà trong làng cũng bỏ tiền đào giếng mà toàn gặp đá, chẳng có lấy hột nước nào”, bà Gluônh chia sẻ.
Còn tại Canh Liên, người dân chạy đôn chạy đáo về các nguồn nước còn sót lại để “cõng” nước về nhà. Để có nước uống, nấu nướng, bà con chia nhau phần nước ít ỏi còn sót lại từ các giếng nước bị nhiễm phèn, hoặc ra tận con suối H’lu cách làng gần 2km để gùi từng can nước về. Các hoạt động khác như tắm rửa, giặt giũ… đều dựa vào các con suối.
Trong khi đó, suối đã cạn, chỉ còn trơ đá và cát, người dân xã Vĩnh Hòa chỉ còn biết nhờ vào các giếng nước của các hộ ở các khu vực thấp hơn. Chị Đuyên cho hay: “Mình phải tranh thủ đi xin nước sớm chứ nếu trễ thì không còn để uống, nói chi đến tắm rửa. Nhiều nhà trong xã còn phải xin chỗ này chỗ kia từng can một cho người và gia súc, gia cầm…”.
NGUYỄN MUỘI