Cửa biển Thị Nại qua Mộc bản triều Nguyễn
Trải dài từ TP Quy Nhơn ra huyện Tuy Phước và đến huyện Phù Cát, cửa biển Thị Nại là cửa biển nổi tiếng ở khu vực Nam Trung bộ, giữ vị trí xung yếu trong vấn đề an ninh quốc phòng.
Ít người biết rằng Thị Nại lại là một địa danh gắn liền với những trận thủy chiến nổi tiếng và là khu vực phòng thủ trọng yếu.
Dưới triều Lý, Hoàng tử Lý Nhật Quang - con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, đã đem thủy binh vào cửa Thị Nại để giúp Chiêm Thành dẹp loạn. Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 9, ghi lại sự việc này như sau: “Bấy giờ, có bộ lạc ở Chiêm Thành làm phản, vua Chiêm Thành cầu viện, quân của vương (Lý Nhật Quang) đóng ở dưới núi Tam Tòa, vua Chiêm Thành đón rước. Bộ lạc Chiêm Thành được tin, đều đến cửa quân sụp lạy và cam đoan xin theo lệnh vua Chiêm, không dám hai lòng. Vương đem quân về, người Chiêm Thành nhớ công đức, bèn lập đền thờ ở dưới núi Tam Tòa”.
Toàn cảnh đầm Thị Nại.
Dưới triều Lê, đặc biệt là thời vua Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông, cửa biển Thị Nại tiếp tục chứng kiến nhiều trận đánh lớn giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành. Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 9, mặt khắc 29, 30 ghi: “Sử chép năm Thái Hòa thứ 4 (1446), đời Lê Nhân Tông, đánh Chiêm Thành, Bình chương Lê Thụ và Thiếu phó Lê Khắc Phục kéo quân đến các xứ Ly Giang và Cổ Lũy, mở thông đường thủy, đắp thành bảo, đánh tan được quân giặc. Thừa thắng đến cửa biển Thị Nại, vây thành Chà Bàn, bắt được chúa Chiêm Thành là Bí Cai. Đời Lê Thánh Tông, khoảng giữa năm Hồng Đức, đánh Chiêm Thành, tiến quân đánh thành Thị Nại, bắt được chúa Chiêm Thành là Trà Toàn”.
Và kể từ thời vua Lê Thánh Tông trở về sau, đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, cửa biển Thị Nại trong gần 300 năm được gió yên sóng lặng. Tuy nhiên, chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh (1787 - 1802), đã biến cửa biển Thị Nại nhiều lần trở thành chiến trường khốc liệt trong thế trận giằng co giữa 2 bên. Cụ thể vào các năm như Nhâm Tý (1792), Quý Sửu (1793), Kỷ Mùi (1799), Canh Thân (1800) và đặc biệt là trận chiến năm Tân Dậu (1801), khi đích thân Nguyễn Ánh cầm đại binh ra đánh quân Tây Sơn đóng giữ ở cửa biển. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 13, mặt khắc 3, 4 còn ghi lại khá chi tiết sự kiện này.
Tháng 7 năm Canh Tý (1840), vua Minh Mạng cho xây pháo đài Hổ Cơ và bảo Thị Nại ở tỉnh Bình Định. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 215, mặt khắc 33 chép: “Vua nghĩ cửa biển Thị Nại nước sâu núi cao, thuyền tàu đi lại thường hay đỗ lại, cũng là chỗ địa đầu xung yếu. Phái ty bộ Công và vệ Giám thành mỗi bên 1 người đi hội với quan tỉnh xem hình thế đất ấy. Bèn chuẩn cho lập một pháo đài ở xứ Hổ Cơ, gọi là pháo đài Hổ Cơ. Lại đặt 1 bảo lắp lũy đất ở gò cát đối ngạn với pháo đài, gọi là bảo Thị Nại để chống đỡ với nhau. Sai thuê 500 dân phu xây dựng công việc ấy...”.
Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 215, mặt khắc 33 ghi về việc vua Minh Mạng cho xây pháo đài Hổ Cơ và bảo Thị Nại, năm 1840. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Đến tháng 10 năm ấy, sau khi đã xây dựng xong, vua Minh Mạng dụ các quần thần rằng: “Kể ra, biết tự trị thì mạnh, có phòng bị thì không lo. Nay, cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam, đã đặt thêm pháo đài Phòng Hải; cửa biển Thị Nại ở Bình Định, lại mới xây pháo đài Hổ Cơ, để giữ chỗ hiểm yếu; còn đảo Côn Lôn ở Vĩnh Long; đảo Phú Quốc ở Hà Tiên, đều có đặt đồn bảo chia phái lính thú tuần phòng, để răn ngừa sự lo bất ngờ. Như thế thì ta ngăn giữ bờ biển đã có cái thế đáng sợ mà không thể xâm phạm được”.
Dưới triều vua Tự Đức, bên cạnh việc cho phái các biền binh đến canh gác ở cửa biển Thị Nại, năm Đinh Mão (1867), vị vua thứ 4 của triều Nguyễn cũng cho xây đắp pháo đài, lũy đá ở cửa biển Thị Nại.
Trải nhiều thăng trầm của lịch sử, cửa biển Thị Nại giờ đây đã trở về với vẻ đẹp, bình yên vốn có. Đến tham quan cửa biển Thị Nại, bên cạnh được thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên hùng tráng, còn giúp chúng ta hiểu hơn về một địa danh với nhiều biến cố dữ dội.
CAO THỊ QUANG