Tăng cường quản lý hoạt động khai thác khoáng sản
Ông Đặng Trung Thành
Thời gian qua, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản (KT-CBKS) trên địa bàn tỉnh đã đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, một số địa phương, đơn vị vẫn còn tồn tại tình trạng buông lỏng quản lý, làm thất thu ngân sách cũng như một số hệ lụy khác. PV Báo Bình Định đã phỏng vấn ông Đặng Trung Thành, Phó Giám đốc Sở TN-MT, về vấn đề này.
* Xin ông cho biết tình hình hoạt động KT-CBKS trên địa bàn tỉnh thời gian qua?
- Trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 115 doanh nghiệp (DN) hoạt động KTKS và 50 DN tham gia CBKS, với tổng số 139 giấy phép KTKS các loại. Trong đó, lĩnh vực khai thác đá khối có 62 giấy phép cấp cho 47 DN; lĩnh vực khai thác đá xay nghiền làm vật liệu xây dựng thông thường có 17 giấy phép cấp cho 16 DN; khai thác cát xây dựng có 19 giấy phép cấp cho 17 DN; khai thác sa khoáng titan có khoảng 30 giấy phép cấp cho 16 DN, trong đó Bộ TN-MT cấp 6 giấy phép. Ngoài ra, còn có một số lĩnh vực KTKS khác, như: Khai thác quặng vàng (1 giấy phép cấp cho 1 DN); khai thác quặng laterite (4 giấy phép cấp cho 1 DN); khai thác cát làm khuôn đúc; khai thác nước nóng, nước khoáng (1 DN được cấp giấy phép)…
Về hoạt động CBKS, hiện có hai loại hình chính là chế biến đá xây dựng và chế biến sâu titan. Trong đó, có 9 DN hoạt động tuyển tinh với công suất 400 ngàn tấn/năm, sản lượng khoảng 350 ngàn tấn tinh quặng Ilmenite/năm; 6 nhà máy sản xuất xỉ titan với công suất 171 ngàn tấn/năm, nguyên liệu tinh quặng Ilmenite đầu vào 322.650 tấn/năm… Riêng về lĩnh vực chế biến đá ốp lát, mỹ nghệ, toàn tỉnh hiện có 27/47 DN được cấp phép khai thác đá granite có nhà máy chế biến đá ốp lát.
* Kết quả hoạt động KT-CBKS mang lại như thế nào, thưa ông?
- Có thể nói là khá khả quan. Theo thống kê của ngành chức năng, tổng công suất của các DN thuộc lĩnh vực khai thác đá khối đạt khoảng 505.670 m3/năm, diện tích sử dụng là 556,37 ha; sản lượng hàng năm đạt khoảng 100 ngàn m3; doanh thu gần 300 tỉ đồng; nộp ngân sách trên 60 tỉ đồng.
Theo NĐ 203, mức thu tiền cấp quyền KTKS được quy định theo nhóm, loại khoáng sản có giá trị từ 1% đến 5% giá trị quặng nguyên khai của khu vực khoáng sản được phép khai thác. Giá trị này được xác định trên cơ sở các yếu tố trữ lượng địa chất, giá tính thuế tài nguyên và các hệ số thu hồi khoáng sản liên quan đến phương pháp khai thác, điều kiện kinh tế - xã hội. Về mức thu tiền cấp quyền KTKS, giá tính được xác định theo giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh xây dựng, công bố tại thời điểm tính tiền cấp quyền KTKS còn hiệu lực. Theo đó, mỗi loại KS trong một khu vực KTKS chỉ được áp dụng một mức giá tính tiền cấp quyền KTKS; trường hợp trong một khu vực KTKS, sản phẩm sau khai thác có nhiều loại và mỗi loại có mức giá khác nhau, thì áp dụng giá trị trung bình các mức giá. Đối với loại KS chưa có giá tính thuế tài nguyên, hoặc phải điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên do không còn phù hợp theo quy định, Sở TN-MT chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan xây dựng giá; Sở Tài chính thẩm định, trình UBND tỉnh phê duyệt.
Phương thức thu tiền cấp quyền KTKS là: Nộp một lần bằng 100% tổng số tiền cấp quyền KTKS hoặc nộp nhiều lần. Thời điểm nộp tiền cấp quyền KTKS chậm nhất lần đầu là 90 ngày tính từ ngày nhận được thông báo của cục thuế địa phương; thời điểm các lần sau chậm nhất là ngày 31.3 các năm tiếp theo. Sau các thời điểm này, ngoài số tiền phải nộp theo thông báo, tổ chức, cá nhân còn phải nộp tiền phạt theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Lĩnh vực khai thác đá xay nghiền làm vật liệu xây dựng thông thường, có tổng công suất các mỏ đá 900.058 m3/năm, diện tích sử dụng 83,65 ha; sản lượng bình quân hàng năm đạt 750 ngàn m3, doanh thu trên 170 tỉ đồng, nộp ngân sách khoảng 35 tỉ đồng.
Lĩnh vực khai thác cát xây dựng có tổng công suất cấp phép là 552.500 m3/năm, tổng diện tích sử dụng 132,58 ha; sản lượng bình quân hàng năm đạt 250 ngàn m3, doanh thu trên 6 tỉ đồng, nộp ngân sách 1 tỉ đồng.
Về lĩnh vực chế biến đá ốp lát, mỹ nghệ, hiện trên địa bàn tỉnh có 45 nhà máy đang hoạt động với tổng công suất khoảng 4,5 triệu m2 đá ốp lát/năm và 100 ngàn m3 đá mỹ nghệ/năm; doanh thu hàng năm đạt khoảng 900 tỉ đồng; nộp ngân sách trên 100 tỉ đồng… Về khoáng sản titan, sản lượng bình quân hàng năm của các DN khai thác titan đạt khoảng 564 ngàn tấn quặng, doanh thu gần 600 tỉ đồng, nộp ngân sách trên 161 tỉ đồng; đóng góp xây dựng hạ tầng trên 31 tỉ đồng...
* Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng thất thu trong hoạt động KTKS?
- Đúng là đã xảy ra tình trạng thất thu trong hoạt động KT-CBKS, nhất là đối với lĩnh vực KT-CBKS titan; do một số DN khai thác titan không chế biến, không qua tinh tuyển để đạt tiêu chuẩn xuất khẩu mà chỉ bán quặng thô cho các DN ngoài tỉnh. Việc làm này đã gây thất thu ngân sách, nhất là thuế xuất khẩu.
* Vậy có giải pháp nào quản lý hiệu quả hoạt động KT-CBKS, chống thất thu, thưa ông?
- Thực ra, việc thất thu của hoạt động KT-CBKS thời gian qua có những nguyên nhân khách quan và chủ quan, liên quan đến nhiều bộ, ngành và hệ thống văn bản pháp quy… Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định (NĐ) số 203/2013/NĐ-CP (NĐ 203) quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền KTKS; phương thức thu, chế độ quản lý và sử dụng tiền cấp quyền KTKS. Đây là cơ sở để ngành TN-MT và các sở, ngành liên quan quản lý hoạt động KT-CBKS chặt chẽ, hiệu quả hơn; đồng thời hạn chế tình trạng thất thu trong lĩnh vực này.
Vừa qua, Sở TN-MT đã tổ chức Hội nghị triển khai NĐ 203 đến tất cả các đơn vị, DN trên địa bàn tỉnh. Mới đây, Sở tiếp tục tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo xử lý đối với các đơn vị, DN không hoàn thổ, phục hồi môi trường sau khai thác titan. Theo đó, đến hết ngày 31.5.2014, nếu DN nào không hoàn thành, Sở TN-MT sẽ lập thủ tục xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
* Xin cảm ơn ông!
VIẾT HIỀN (Thực hiện)