Ai về nhắn với nậu Nguồn…
Ở Bình Định có câu hát ru phổ biến tự xa xưa và lưu truyền đến ngày nay: Ai về nhắn với nậu nguồn/ Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên… Một số địa phương vùng Nam Trung bộ cũng cho câu hát ru trên là của quê hương mình, nhưng không thể phủ nhận phương ngữ nậu/nẩu/nẫu của Bình Định. Lại có dị bản thay “măng le” bằng “mít non”, nhưng tôi nghĩ có lẽ măng le hợp lý hơn, vì măng le là đặc sản vùng nguồn, mít non thì nơi nào cũng có. Câu hát ru đã cho ta hình ảnh một thời giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi với nguồn.
1.Theo Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của, nguồn: Ngọn suối, lên nguồn: Đi lên các xứ mọi ở trên nguồn. “Nguồn” hiểu như một đơn vị hành chính ra đời từ thời Lê sơ, dưới thời các chúa Nguyễn “nguồn” được xác lập với tư cách là một đơn vị hành chính cơ sở đặc biệt tại khu vực trung du và miền núi.
Theo ghi chép của Lê Quí Đôn, nguồn ở vùng thượng du như là tổng ở đồng bằng. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn đánh giá rất cao tính vượt trội về các mặt hàng xứ Quảng mà phần lớn do phủ Qui Nhơn sản xuất như: “Thóc gạo, trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai ốc, bông, sáp, đường, mật, dầu sơn, hồ tiêu, cá muối…”. Đánh giá về sản vật của phủ Qui Nhơn, trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng ghi nhận: “Sản vật có nhiều như trầm hương, tốc hương, sừng tê, vàng, bạc, đồi mồi, châu báu, sáp ong, đường mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, cá, muối và các thứ gỗ đều tốt, thóc lúa không biết bao nhiêu mà kể…”. Đầu thế kỷ XVII, Qui Nhơn nhanh chóng trở thành vùng đất trù phú của các ngành sản xuất và giữ vai trò đầu mối giao lưu hàng hóa ở khu vực.
Nguồn không phải là một đơn vị hành chính chính thức, không có chức năng thực thụ của một cấp hành chính địa phương. TS. Andrew Hardy trong bài viết “Nguồn” trong kinh tế hàng hóa ở Đàng Trong, xác định: Nguồn có ba chức năng chính: Trước hết là một cái chợ; thứ hai, là địa điểm đánh thuế hàng hóa, nơi đây có sự hiện diện của quân đội; cuối cùng, là một đơn vị hành chính, gần tương đương với một tổng ở đồng bằng.
Theo TS Trương Anh Thuận trong bài viết “Bước đầu nghiên cứu các hệ thống nguồn ở Bình Định trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX”, đối chiếu, so sánh các sử liệu trong Phủ biên tạp lục (soạn 1776), Đại Nam thực lục (soạn từ 1821) và Đại Nam nhất thống chí, dưới thời chúa Nguyễn, toàn bộ khu vực miền núi phủ Qui Nhơn chỉ có 6 nguồn, bao gồm: Hà Nghiêu, Trà Đinh, Trà Vân, Ô Kim, Cầu Bông, Đá Bàn, đến thế kỷ XIX, tăng lên 18 nguồn, nhiều nhất so với các địa phương ở Nam Trung bộ lúc bấy giờ, bao gồm: An Tượng, Cầu Bông, Đá Bàn, Đồng Trí, Hà Thanh, Hà Nghiêu, Hà Náo, Hải Đông, Kiều Bông, Lộc Động, Phương Kiệu, Ô Kim, Ô Liêm, Thạch Bàn, Trà Văn (Trà Vân), Trà Bình (Trà Đinh), Trà Sơn, Trà Đính. Sự gia tăng đột biến này chủ yếu từ việc chia nhỏ khu vực miền núi phía Tây Bình Định thành nhiều nguồn khác nhau vào thế kỷ XIX, nhằm quản lý sâu sát và khai thác thuế lâm thổ sản của triều đình trung ương đương thời đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số.
Sông Hà Thanh bắt nguồn từ huyện Vân Canh chảy qua huyện Tuy Phước và TP Quy Nhơn rồi đổ ra đầm Thị Nại. Ảnh: HUỲNH KIM
2. Nhà nước phong kiến suốt nhiều thế kỷ liền đã khai thác triệt để thế mạnh tài nguyên của mỗi nguồn trên địa bàn Qui Nhơn/Bình Định. Trong đó, tập trung vào một số nguồn có tiềm năng cung cấp nhiều loại sản vật khác nhau như: Hà Thanh (cách huyện Tuy Phước hơn 100 dặm về phía Tây Nam, thủ sở ở địa phận hai thôn Quang Thuận và Cảnh Vân), Trà Vân (Tây Bắc huyện Bồng Sơn, cách huyện hơn 60 dặm, giáp huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, thủ sở ở địa phận hai thôn An Đỗ và An Hội), Trà Bình (cách huyện Bồng Sơn hơn 70 dặm lệch về phía Tây Bắc, thủ sở ở địa phận thôn Hưng Nhân)...
Các chúa Nguyễn khoán cho quan thân cận nắm giữ thủ sở các nguồn, nộp về triều một khoản thu nhất định dựa vào mức giao dịch trao đổi, mua bán; ngoài ra các quan tự đặt một khoản thu khác cho mình, việc thu loại thuế này tại một số nguồn ở phủ Qui Nhơn được Lê Quí Đôn ghi lại rất chi tiết trong Phủ biên tạp lục, ông ghi ra đến từng chĩnh mật ong, từng cuộn chiếu mây… Sách Thiên Nam dư hạ tập cũng có một số ghi chép tương tự.
Ngoài chức năng là một địa điểm đánh thuế hàng hóa, có sự hiện diện của quân đội và một đơn vị hành chính, các nguồn còn đảm nhận vai trò quan trọng là chợ giao thương, buôn bán giữa miền ngược và miền xuôi. Các nguồn thiết lập ở vùng miền núi, hoạt động như những điểm thu gom hàng hóa và thu thuế đối với hàng hóa di chuyển giữa miền núi và đồng bằng. Ở các nguồn thường có trường sở buôn bán hay trường giao dịch do triều đình lập ra và quản lý.
Sách Đại Nam nhất thống chí có đề cập đến sự tồn tại của các trường giao dịch tại một số nguồn ở Bình Định như sau: “Nguồn Thạch Bàn: Ở cách huyện Phù Cát hơn 20 dặm về phía Tây, thủ sở ở địa phận hai thôn Thạch Bàn và Hội Sơn. Lại có hai trường giao dịch ở Hà Vị. Nguồn Phương Kiệu: Ở cách huyện Tuy Viễn hơn 150 dặm về phía Tây, thủ sở địa phận thôn An Khê, trước có trường giao dịch”.
Sách Dân làng Hồ của P. Dourisboure (Les Sauvages Bahnars. P. Dourisboure de la Société des Missions Étrangères. Paris 1929) cũng ghi nhận: “Suốt dọc ranh giới phía Tây của miền Trung vương quốc, trong khoảng cách từ hai đến ba ngày đường, các dãy núi rừng do người Thượng cư ngụ, đều thường có thương buôn người Kinh qua lại, trao đổi hàng hóa với thổ dân”.
Tại nguồn Phương Kiệu thế kỷ XVIII, Nguyễn Nhạc đã làm hai nghề: Người buôn bán với người Thượng và thu thuế cho chính quyền ở nguồn. Nguyễn Nhạc có mối quan hệ chính trị gần gũi với người Thượng cũng như truyền thống của họ và khởi nghĩa Tây Sơn đã bắt đầu từ một trong những nguồn quan trọng ở Đàng Trong - nguồn Phương Kiệu. Hiện nay, ở An Khê còn di tích An Khê Trường, sở giao dịch ngày xưa thuộc nguồn Phương Kiệu. Đây cũng là trung tâm đồn lũy ban đầu của ba anh em nhà Tây Sơn trong buổi đầu khởi nghiệp. An Khê Trường đã được Bộ VHTT&DL công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991.
3. Đến thế kỷ XIX, mặc dù trong tài liệu do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn không thấy thống kê cụ thể về mức thuế thu được từ các nguồn ở Bình Định qua từng năm, nhưng việc tồn tại hệ thống trạm giao dịch tại đây với sự đồn trú thường trực của quân đội và quan lại triều đình như: Trạm Hà Vi ở nguồn Thạch Bàn, trạm An Khê (An Sơn) ở nguồn Phương Kiệu... là một trong những cứ liệu khoa học cho phép khẳng định triều Nguyễn vẫn tiếp tục duy trì hoạt động trưng thu loại thuế này đối với các nguồn trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Qui Nhơn - vùng đất mới được xác lập vào nửa sau thế kỷ XV, nhưng với vị trí địa lý là cửa ngõ của khu vực Bắc Tây Nguyên, ưu thế về đường biển, hệ thống giao thông Đông - Tây và Bắc - Nam thuận lợi (đường thiên lý thượng đi theo chân dãy Trường Sơn, đường thiên lý hạ chạy dọc bờ biển) cùng với sự phong phú về sản vật đã sớm tạo cho vùng đất này vừa là đầu mối giao thông liên lạc, vừa là trung tâm giao lưu hàng hóa của xứ Đàng Trong, từng là chỗ dựa cho chúa Nguyễn mở cõi về phương Nam và có nhiều đóng góp về kinh tế cho triều Nguyễn sau này, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các nguồn ở Bình Định.
NGUYỄN THANH QUANG