Tạo môi trường đầu tư thuận lợi và minh bạch
Sáng 4.,6, Chính phủ đã trình trước Quốc hội Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi). Dự thảo luật đã tập trung thể chế hóa nguyên tắc Hiến định về quyền tự do kinh doanh của công dân trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; góp phần thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế…
Dự thảo Luật về cơ bản tiếp tục duy trì kết cấu của Luật Đầu tư hiện hành với 9 chương, 84 điều. So với Luật Đầu tư hiện hành, Dự thảo Luật giữ nguyên 4 điều, sửa đổi 31 điều, bổ sung 9 điều mới và bỏ 31 điều, trong đó sửa đổi căn bản các nội dung về thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam và hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra, Luật bỏ Chương VII về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vì nội dung này đã được quy định trong Dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
Dự thảo đã hoàn thiện các quy định về trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định tương ứng của Hiến pháp (Điều 7). Cụ thể hóa cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế (Khoản 1, Điều 8). Cùng với đó, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số nội dung nhằm cụ thể hóa những nguyên tắc và điều kiện thực hiện biện pháp không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến điều kiện đầu tư hoặc ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư (Điều 11).
Về lĩnh vực ưu đãi đầu tư, dự thảo bổ sung vào danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư các dự án năng lượng mới, năng lượng sạch, các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao, sản phẩm cơ khí trọng điểm. Cụ thể hóa tiêu chí xác định một số dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư chưa được quy định rõ trong Luật hiện hành (ví dụ: bảo vệ môi trường sinh thái gồm dự án thu gom, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải, khí thải).
Để khắc phục việc áp dụng ưu đãi đầu tư tràn lan đối với tất cả các dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư, dự thảo Luật quy định ưu đãi đầu tư theo địa bàn không áp dụng đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Ngoài ưu đãi đầu tư theo ngành nghề và địa bàn, Dự thảo Luật bổ sung chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với một số doanh nghiệp và hoạt động đầu tư trên cơ sở luật hóa quy định trong một số Nghị định đã được thực hiện ổn định trong thời gian qua; cụ thể như sau:
Nhằm hệ thống hóa và nâng cao hiệu lực pháp lý của chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đã được thực hiện ổn định tại các Nghị định hiện hành, dự thảo bổ sung quy định về chính sách trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa và chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn.
Dự thảo đưa nhiều nội dung mới trong thủ tục đầu tư, như: Bỏ yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư, trừ dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ
Dự thảo Luật tiếp tục duy trì chế độ phân cấp cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho UBND cấp tỉnh và Ban Quản lý khu công nghiệp.
Quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài được thiết kế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật hiện hành, đồng thời luật hóa và hoàn thiện một số quy định tại Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 9.8.2006 của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài. Trong đó khẳng định nguyên tắc: Nhà đầu tư được thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư.
. Theo XUÂN DŨNG (QĐND)