Tập trung giảm nghèo nhanh, bền vững (*)
Tại phiên thảo luận ở hội trường kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII về việc thực hiện chính sách pháp luật (CSPL) về giảm nghèo giai đoạn 2005-2012, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Trần Văn Bản, Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định, đã phát biểu một số vấn đề quanh việc thực hiện CSPL về nội dung nói trên. Dưới đây là bài phát biểu của đại biểu Trần Văn Bản.
Về thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo
Giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội ngày càng được tăng cường, hoàn thiện và hiệu quả hơn. Người nghèo đã được tiếp cận nhiều nguồn trợ giúp của Nhà nước. Nhiều chính sách đã đi vào cuộc sống. Kết quả đã đạt được trong chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế, nhà ở và các chính sách xã hội khác.
Những thành tích ấn tượng đó thể hiện qua những số liệu trong các báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Chính phủ, như tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 22% (năm 2005) xuống còn 7,8% (năm 2013), tỉ lệ hộ nghèo trong 62 huyện nghèo giảm xuống còn 37%. Đặc biệt đã có tới 57,5% xã bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có chuyển biến rõ rệt, 7,4% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã, 84% xã đặc biệt khó khăn có điện lưới quốc gia, 100% xã có trường tiểu học, trung học và trạm y tế xã.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, cần được tập trung khắc phục. Như tỉ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng chưa bền vững. Nhiều nơi tỉ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn 60% đến 70%. Tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước. Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng ngày càng dãn rộng giữa các vùng và nhóm dân cư. Chính sách về việc làm, tăng thu nhập như cho vay vốn tín dụng, ưu đãi dạy nghề, tạo việc làm xuất khẩu lao động, hỗ trợ phát triển sản xuất, mức hỗ trợ của các chính sách này còn thấp, chưa đủ mạnh để thúc đẩy hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
Về huy động vốn nguồn lực tại chỗ chưa có biện pháp hướng dẫn đầu tư để đưa khoa học vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, để phát huy nội lực trong vùng có điều kiện phát triển cây công nghiệp hoặc vật nuôi có giá trị kinh tế cao để giảm nghèo. Tình trạng trông chờ, ỷ lại vào nguồn trợ giúp từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở một số địa phương còn phổ biến, tâm lý chịu khổ hơn chịu khó còn tồn tại trong đại bộ phận nhân dân ở một số huyện nghèo.
Kiến nghị thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến cuối năm 2015
Nước ta có nhiều vùng địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau, nhất là vùng sâu, vùng xa, hầu hết là những vùng căn cứ cách mạng, đồng thời đồng bào một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng hiện tại là những huyện nghèo, xã nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, thực phẩm hoặc chăn nuôi các con vật truyền thống. Nhưng ở đây lại thuận lợi cho một số loại cây, con khác có giá trị kinh tế cao mà các vùng miền khác không thể có được.
Do đó, để thực hiện được mục tiêu đến cuối năm 2015 tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5%, tỉ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 30%, tôi đề nghị Nhà nước cần có chính sách tổng thể nghiên cứu đặc điểm, địa lý, khí hậu, môi trường, thổ nhưỡng, cây, con đặc thù của từng vùng, từng khu vực, trên cơ sở đó các bộ, ngành ở Trung ương, các nhà khoa học cùng với chính quyền các địa phương khảo sát nghiên cứu đầu tư, hoạch định chính sách phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng, để phát triển kinh tế theo hướng chuyên canh, công nghiệp để đạt năng suất cao.
Đề nghị các bộ, ngành ở Trung ương cần có kế hoạch phát triển các đề tài nghiên cứu khoa học hướng về cơ sở, về xóa đói giảm nghèo, về vùng sâu, vùng xa, đầu tư nguồn vốn và có sự liên kết 4 nhà theo Quyết định 80 của Chính phủ một cách thiết thực và trách nhiệm, tránh tình trạng được mùa thì mất giá như hiện nay.
Về sử dụng nguồn lực tại chỗ, đề nghị Chính phủ giao cho các tỉnh, thành phố có huyện nghèo, xã nghèo tổng hợp số sinh viên đã học xong đại học, cao đẳng chưa có việc làm tại các huyện nghèo hoặc huyện lân cận, bố trí công tác cho những xã thiếu cán bộ, các xã nghèo, vừa đỡ lãng phí nguồn lực tại chỗ, góp phần giảm nghèo cho chính các đối tượng này.
Kiến nghị CSPL về giảm nghèo cho ngư dân
Tỉnh Bình Định có gần 8.000 tàu cá, trong đó có 40% tàu đánh bắt xa bờ tại các ngư trường ở biển Hoàng Sa, Trường Sa. Các tàu này đều là tàu vỏ gỗ, công suất thấp, đời sống ngư dân phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời tiết, thiên tai, may rủi, khi gặp sự cố cũng dễ trắng tay và trở thành hộ nghèo.
Để thực hiện CSPL về giảm nghèo cho ngư dân và đồng bào vùng biển đảo, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, cải thiện đời sống cho nhân dân vùng biển, ven biển, tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, những ngư dân sống tập trung ven biển, làng cá ven biển không có đất ở hoặc có đất ở nhưng ở vùng bãi lở ven biển, dễ có nguy cơ bị tai họa do thiên tai, đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất ở hoặc đất tái định cư cho các hộ này.
Thứ hai, Nhà nước đã có nhiều chính sách cho ngư dân đề nghị triển khai kịp thời, đồng bộ. Tổ chức tập huấn sơ cấp cứu ban đầu, hỗ trợ một số thuốc cấp cứu và trang bị một số công cụ tự vệ để ngư dân yên tâm đi biển đánh bắt xa bờ.
Thứ ba, đề nghị Nhà nước quán triệt cho ngư dân học tập Luật biển Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và Công ước về biển của quốc tế.
Thứ tư, để giúp ngư dân sớm thực hiện giấc mơ có tàu vỏ sắt công suất lớn, đề nghị sau khi Quốc hội thông qua khoản vốn 16.000 tỉ đồng hỗ trợ phương tiện cho ngư dân thì Chính phủ khẩn trương giải ngân kịp thời, thủ tục đơn giản, chính xác, tránh thất thoát để ngư dân sớm có đội tàu vỏ sắt, có công suất lớn, nâng cao hiệu quả đánh bắt xa bờ và tham gia bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
TRẦN VĂN BẢN
(*) Tít bài và các tít con do tòa soạn đặt.