Dần hoàn thiện kỹ thuật điều trị dị tật tiết niệu - sinh dục nhi
Dị tật tiết niệu - sinh dục ở trẻ em là những bệnh lý phức tạp, cần được chữa trị tốt để đảm bảo chức năng sống. Các bác sĩ BVĐK tỉnh đang nỗ lực hoàn thiện kỹ thuật điều trị các bệnh lý này.
Trong 2 ngày 29 và 30.5, đoàn bác sĩ của Bệnh viện Nhi đồng 2 (TP Hồ Chí Minh) đã thực hiện chuyển giao kỹ thuật và cập nhật kiến thức về điều trị các bệnh lý dị tật tiết niệu - sinh dục nhi tại BVĐK tỉnh. Hoạt động chính của đợt chuyển giao này là phẫu thuật cho 7 bệnh nhi bị thận ứ nước do bệnh lý khúc nối, dị tật lỗ tiểu thấp (thể nặng).
Nhiều trẻ bệnh nặng được điều trị
Khi mang thai đến tháng thứ 8, chị Đặng Thị Loan (ở xã Ân Đức, huyện Hoài Ân) được các bác sĩ thông báo đứa con trong bụng đã có bất thường ở thận, khó “qua khỏi”. Ngay sau đó, ca sinh mổ được thực hiện. Bé Đoàn Đặng Tuấn Anh ra đời với cân nặng 3,3kg; đôi mắt sáng, má bụ bẫm, nhưng cứ bú xong là bé lại ọi. 1,5 tháng tuổi, Tuấn Anh bắt đầu theo mẹ trong hành trình chữa bệnh đầy nhọc nhằn.
Sau 6 lần vào Bệnh viện Nhi đồng 2 chữa bệnh, Tuấn Anh được đặt lịch mổ vào tháng 7 này. Nhưng, nhờ có đợt chuyển giao kỹ thuật điều trị, bé đã được mổ tạo hình khúc nối bể thận niệu quản trái ngay tại BVĐK tỉnh vào ngày 29.5. Sáng ngày 7.6, lúc tôi đến thăm, cậu bé đã tươi tỉnh lắm. “Tuy tiểu còn chút khó khăn, nhưng các bác sĩ bảo ca mổ thành công, thận trái không còn ứ nước, cháu sẽ sớm khỏi bệnh”, chị Loan vui mừng chia sẻ.
Cùng mắc chứng hẹp khúc nối bể thận như Tuấn Anh, nhưng Lê Thị Kim Hảo (7 tháng tuổi, ở xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước), bị ứ nước cả 2 bên thận. Chị Lê Thị Trà Mi, mẹ của Hảo, biết con mắc bệnh từ khi mới mang thai hơn 20 tuần. “Lúc 6 tháng tuổi, bé sốt do mọc răng, cho uống thuốc hạ sốt thì bắt đầu tiểu rặn, nên phải nhập viện điều trị. Giờ, bé tiểu bình thường, không nhăn mặt nữa rồi”, chị Mi kể. Sau ca phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản phải thành công, bé Hảo đã được xuất viện ngày 9.6.
Được xuất viện cùng lúc với Kim Hảo là bé N.A.K. (5 tuổi, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ), có lỗ tiểu thấp ở gốc dương vật, dương vật bị cong bẩm sinh. Chị Đặng Thị Phương, mẹ của bé K., nhớ lại: “Hồi còn nhỏ xíu, bé hay “đái ngồi” vì sợ ướt quần. Lớn lên một chút, được người lớn hướng dẫn nên đã khéo léo hơn”. Cùng với 3 bé trai khác, K. được các bác sĩ phẫu thuật tạo hình niệu đạo dương vật.
Tiến tới hoàn thiện kỹ thuật điều trị
Theo Phó khoa Ngoại Tổng hợp Phạm Văn Phú, BVĐK tỉnh đã tiếp nhận và điều trị các bệnh lý tiết niệu- sinh dục ở trẻ em từ năm 1993. Thận ứ nước do bệnh lý khúc nối thường ít gặp, 1-2 tháng mới mổ 1 ca. Bác sĩ Phú cho biết: “Về kỹ thuật mổ, cơ bản không thay đổi nhiều, nhưng lâu nay chúng ta thiếu các bộ dụng cụ phẫu thuật nhi chuyên dụng. Các nước tiên tiến cũng như các trung tâm lớn trong nước đã bắt đầu mổ nội soi. Đây là hướng phấn đấu của chúng tôi trong những năm tới. Trong đợt chuyển giao này, chúng tôi học được nhiều trong chẩn đoán chỉ định mổ, trang thiết bị, vật tư tiêu hao đi kèm để phấn đấu đề xuất mua sắm”.
Các bác sĩ ở BVĐK tỉnh Bình Định đã thành thạo kỹ thuật điều trị các dị tật tiết niệu - sinh dục nhi, chỉ cần hoàn thiện và thêm kinh nghiệm chuyên sâu...........
PGS-TS. LÊ TẤN SƠN, Trưởng khoa Niệu, Bệnh viện Nhi đồng 2
Trong khi đó, bệnh lý dị tật lỗ tiểu thường gặp hơn, vào mùa hè BVĐK tỉnh có thể mổ 3-4 ca/tuần. Nhiều kỹ thuật mổ khác nhau được áp dụng, nhưng cũng chưa có bộ dụng cụ chuyên cho phẫu thuật nhi cùng kính lúp phóng đại. Với các lỗ tiểu thấp thể nặng, các bác sĩ thường tạo hình niệu đạo kèm dựng thẳng dương vật trong 1 thì, vì vậy tỉ lệ rò niệu đạo sau mổ còn cao nên sau đó phải vá rò. “Các chuyên gia của Bệnh viện Nhi đồng 2 khuyên chúng tôi tiến hành mổ 2 thì. Ban đầu, chỉ dựng thẳng dương vật và tạo niệu đạo bằng nguyên liệu tại chỗ cho 1 đoạn ngắn phía dưới. Sau đó sẽ mổ thì 2, tạo hình niệu đạo hoàn chỉnh để giảm tỉ lệ rò niệu đạo”, bác sĩ Phú phân tích.
Theo PGS-TS. Lê Tấn Sơn, Trưởng khoa Niệu, Bệnh viện Nhi đồng 2, quan trọng nhất trong điều trị các dị tật tiết niệu - sinh dục nhi là phải làm tốt khâu chẩn đoán ban đầu. Lâu nay, việc chỉ định mổ ở BVĐK tỉnh và một số bệnh viện tuyến tỉnh rất dè dặt, bởi vướng trong chẩn đoán, cụ thể là chưa có xạ hình thận, thiếu lực lượng siêu âm chuyên sâu trên lĩnh vực nhi khoa. “Có những dị tật ở trẻ như bất thường ở bộ phận sinh dục chỉ cần điều trị ở khoa Nhi, nhưng lại đưa sang khoa Sản hoặc khoa Nam học, gây khó khăn cho điều trị”, bác sĩ Sơn nhận định.
Quá trình điều trị các bệnh lý tiết niệu - sinh dục nhi đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều chuyên khoa. Xây dựng đội ngũ chuyên sâu và tăng cường công tác phối hợp là những mục tiêu lớn trong các đợt chuyển giao tiếp theo của Bệnh viện Nhi đồng 2 tại BVĐK tỉnh.
NGUYỄN VĂN TRANG