Thông qua Luật Phá sản (sửa đổi)
Sáng nay, 19.6, trước khi trình Quốc hội thông qua, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu đã báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến về dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi).
Ông Nguyễn Văn Giàu cho biết, qua thảo luận có ý kiến đề nghị quy định cá nhân người lao động chỉ thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thông qua tổ chức công đoàn để tránh việc nộp đơn tràn lan. UBTVQH cho rằng trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã nợ lương người lao động thì người lao động trở thành chủ nợ và có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bình đẳng như các chủ nợ khác. Người lao động có thể tự mình hoặc thông qua công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo luật.
Về quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản (Điều 18), có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trường hợp kế thừa quyền và nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản, bổ sung chế định về những người tham gia tiến hành thủ tục phá sản khác như luật sư, người phiên dịch, người đại diện và quy định rõ quyền và nghĩa vụ của nhóm đối tượng này. Theo UBTVQH, việc kế thừa quyền và nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản, tham gia của luật sư, người đại diện... được áp dụng các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự. Khi tham gia thủ tục phá sản, các chủ thể này không có quyền, nghĩa vụ đặc thù nên không cần quy định riêng. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật. Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết phá sản (Điều 21), theo ông Nguyễn Văn Giàu, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cho phép Viện kiểm sát nhân dân có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và được Tòa án nhân dân gửi các quyết định về thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, các ý kiến kết luận giám sát của Thẩm phán, Quản tài viên trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Về vấn đề này, UBTVQH cho rằng: theo quy định của Hiến pháp, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết phá sản, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với hoạt động tư pháp của Tòa án nhân dân. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa khoản 3 Điều 55 cho thống nhất với quy định của Bộ luật dân sự, quy định trường hợp người được bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. UBTVQH tiếp thu và chỉnh lý khoản 3 Điều 55 như sau: “Trường hợp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người được bảo lãnh đều mất khả năng thanh toán thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh theo quy định của pháp luật”.
Sau đó, với 86,75% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản (sửa đổi). Cũng trong sáng nay, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường về dự án Luật Căn cước công dân. Tán thành việc ban hành Luật Căn cước công dân, nhưng ĐB Tô Văn Tám (Kon Tum) cho rằng không nên đặt vấn đề công dân làm đơn xin cấp, mà nên quy định công dân làm đơn đề nghị cấp đổi thẻ căn cước. Theo tính toán, nhu cầu cấp thẻ căn cước công dân là rất lớn, nên cần có hướng phân cấp thẩm quyền cấp thẻ cho công an cấp huyện. Tuy nhiên, bước đầu nên làm ở cấp tỉnh, khi đủ điều kiện mới phân cấp cho công an cấp huyện.
Trong khi đó, nhiều đại biểu khác băn khoăn về việc cấp thẻ căn cước cho người dưới 15 tuổi. ĐB Đỗ Ngọc Niễn (Bình Thuận) đặt câu hỏi: Liệu thẻ căn cước có thay thế được giấy khai sinh không, tính khả thi đến đâu? Dự luật đặt vấn đề cấp thẻ căn cước cho người dưới 15 tuổi để làm gì khi mà số công dân này hiện chiếm 24% dân số mà không có giao dịch gì phổ biến, như vậy có lãng phí không? “Quốc hội ủng hộ việc ban hành luật nhưng sự hợp lý, vấn đề tiết kiệm cần được tính toán kỹ” – ông Niễn nói. Cùng quan điểm này, ĐB Đặng Thị Kim Liên (Yên Bái) cho rằng trẻ em dưới 15 tuổi đặc điểm nhận dạng chưa ổn định, trong các giao dịch cũng cần có người lớn giám hộ. Hơn nữa, trẻ em khi sinh ra đã có giấy khai sinh, nếu thêm thẻ căn cước sẽ gây phiền hà, tạo sự tốn kém. Mục đích định hướng tới cấp thẻ căn cước cho trẻ dưới 15 tuổi là gì, cần làm rõ? Bà Liên gợi ý chỉ nên đăng ký thông tin của công dân khi sinh ra vào cơ sở dữ liệu, đến khi đủ 15 tuổi mới cấp thẻ căn cước. Lo ngại về sự tốn kém khi đổi từ chứng minh thư (CMT) sang thẻ căn cước công dân, ĐB Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cho rằng xem xét kỹ có thể thấy bản chất của căn cước và CMT không có gì thay đổi. Ông cũng không đồng tình việc cấp căn cước cho công dân dưới 15 năm tuổi. “Bản thân dự luật đã có sự mâu thuẫn. Điều 3 quy định căn cước công dân là các thông tin cơ bản về gốc tích, đặc điểm nhân dạng của công dân theo quy định của Luật này để xác định một người cụ thể và phân biệt người này với người khác. Trong khi Điều 18 lại quy định đối với người dưới 15 tuổi thì không in ảnh, vân tay và ghi đặc điểm nhân dạng của người đó trên thẻ” – ông Phương bình luận và nói thêm rằng thẻ căn cước không thể thay thế giấy khai sinh, vì giấy khai sinh là quyền của mỗi công dân khi sinh ra. Theo ĐB Trương Trọng Nghĩa (TPHCM), vẫn có nhiều câu hỏi dự thảo luật chưa trả lời được. Về sự cần thiết, đúng là có sự cần thiết nhất thể hoá thông tin công dân, đơn giản hoá thủ tục hành chính, nhưng thẻ căn cước chưa chứng minh được sự cần thiết này. Hiệu quả kinh tế xã hội càng mờ mịt, tác động về kinh tế, về sự ổn định pháp lý còn chưa rõ. “Phải chăng chúng ta cho đập nhà cũ, xây nhà mới nhưng chưa biết thiết kế ra sao?” – ông Nghĩa ví von. ĐB Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước) cũng cho rằng với dự án Luật Căn cước công dân như hiện nay, mong muốn đơn giản hoá giấy tờ của công dân chưa được giải quyết triệt để. Ông Hùng phân tích: “Căn cước có thể thay thế được hộ khẩu, hộ chiếu, các giấy tờ khác như giấy khai sinh, nhóm máu, mã số thuế, bảo hiểm y tế có tích hợp được không? Luật cần ghi rõ đến bao giờ thay thế được. Nếu thay thế được thì có phải tiến hành các dự án khác không, công nghệ đáp ứng được không? Đó là các câu hỏi mà ban soạn thảo luật cần giải đáp. Dự án luật có tầm nhìn xa hơn, có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành để tránh phát sinh những vấn đề bất cập khi thực hiện”.
. Theo HÀM YÊN (SGGP)