Ứng dụng thiết bị và công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật:
Giúp nâng cao chất lượng sản phẩm
Trong những ngày qua, ngành chức năng của tỉnh đã phối hợp với chuyên gia thủy sản của Công ty Kato Hitoshi General Office (Nhật Bản) hướng dẫn bà con ngư dân xã Tam Quan Bắc (huyện Hoài Nhơn) áp dụng thiết bị và công nghệ câu cá ngừ đại dương (CNĐD) của Nhật vào thực tế khai thác, đánh bắt, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả hoạt động khai thác cá ngừ ở những vùng biển xa.
Sản lượng lớn, nhưng chất lượng thấp
Theo Sở NN-PTNT, nghề câu CNĐD ở tỉnh ta có từ lâu, nhưng phát triển mạnh từ năm 2003 đến nay, chủ yếu bằng câu vàng, vây khơi, khai thác cá ngừ vàng vây, cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn và cá ngừ sọc dưa… Từ năm 2011, ngư dân làm nghề mành chụp mực ở tỉnh ta đã phát hiện ra tập tính thích ăn mồi mực sống của CNĐD, nên họ đã sử dụng ánh sáng (mỗi tàu cá được lắp đặt từ 16 - 22 bóng đèn 1.000W) để dẫn dụ đàn mực bắt làm mồi câu và kéo theo đàn cá ngừ đến ăn mồi, ngư dân đã sử dụng câu tay với mồi mực để câu CNĐD. Từ đó, xuất hiện thêm nghề câu tay CNĐD kết hợp ánh sáng. Đối tượng chính của nghề này là cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to.
Nghề câu tay kết hợp ánh sáng cho năng suất đánh bắt cao, thời gian đi biển ngắn, giảm chi phí chuyến biển, nên hầu hết ngư dân làm nghề câu vàng ở tỉnh ta đã trang bị thêm dàn đèn cao áp và chuyển sang làm nghề này, với khoảng trên 1.000 tàu tham gia. Nghề câu tay phát triển mạnh, sản lượng CNĐD tăng cao. Riêng 5 tháng đầu năm 2014, ngư dân tỉnh ta đã khai thác được khoảng 65.900 tấn hải sản các loại, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó có gần 4.000 tấn CNĐD, tăng 4,9%.
Tuy sản lượng CNĐD khai thác được khá cao, nhưng ngư dân không vui vì giá sản phẩm thấp và thường không ổn định; có thời điểm chỉ từ 45.000 - 50.000 đồng/kg, nên bị thua lỗ. Nhiều ngư dân cho rằng, sở dĩ giá CNĐD thấp là do thương lái ép giá, còn các cơ sở thì cho rằng chất lượng CNĐD quá kém, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, chỉ có thể tiêu thụ nội địa, nên không thể mua với giá cao.
Đề cập đến vấn đề nêu trên, ông Nguyễn Hữu Hào, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT, cho biết: Năm 2013, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện từ khâu khai thác đến việc bảo quản sản phẩm CNĐD trên tàu cá của ngư dân, chúng tôi đã tìm ra nguyên nhân làm giảm chất lượng CNĐD. Sở dĩ chất lượng cá ngừ thấp là do trong quá trình bị giật và kéo lên tàu, cá vùng vẫy và giãy giụa mạnh khiến lượng acidlactic trong cơ thể tăng lên đáng kể, dẫn đến độ acid trong thịt cá tăng; cùng với nhiệt độ bảo quản cao làm cháy thịt cá, hay còn gọi là hiện tượng yakeniku, nên cho chất lượng thịt cá bị giảm. Mặt khác, số lượng cá ngừ khai thác của nghề câu tay lớn, ngư dân câu cá vào ban đêm, nên công đoạn xử lý, bảo quản diễn ra chậm, dụng cụ xử lý cá và trình độ quản lý của ngư dân chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều tàu cá không có thiết bị giết cá chuyên dụng, không sử dụng đệm lót làm cho cá bị trầy xước…. khiến cho nhiệt độ cơ thể cá tăng cao, dẫn đến quá trình phân hủy diễn ra nhanh làm ảnh hưởng đến chất lượng thịt cá.
Nâng cao chất lượng sản phẩm
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, từ ngày 10.6 đến nay, cán bộ của ngành Nông nghiệp cùng với chuyên gia thủy sản của Công ty Kato Hitoshi General Office đã hướng dẫn ngư dân xã Tam Quan Bắc lắp đặt và vận hành các bộ thiết bị và công nghệ câu CNĐD của Nhật.
Ông Nguyễn Quê, ở xã Tam Quan Bắc, một trong số những ngư dân trực tiếp thực hiện thí điểm mô hình đánh bắt và bảo quản CNĐD để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, cho rằng: Bộ thiết bị và công nghệ câu CNĐD của Nhật gọn nhẹ và hiện đại, rất dễ sử dụng. Với sự hỗ trợ của bộ thiết bị nói trên, áp dụng quy trình khai thác, bảo quản sản phẩm theo kiểu Nhật Bản, chắc chắn sẽ giảm được công lao động, rút ngắn thời gian chuyến biển, sản lượng và giá trị CNĐD sẽ đạt cao hơn. Trong tuần này, chúng tôi sẽ lắp đặt bộ thiết bị lên tàu, đồng thời cải tạo hầm chứa cá để phục vụ hoạt động khai thác CNĐD.
Theo ông Masakazu Shoga, chuyên gia thủy sản của Công ty Kato Hitoshi General Office: Quy trình khai thác, xử lý cá và cách bảo quản CNĐD của ngư dân Bình Định còn rất nhiều hạn chế; thời gian chuyến biển kéo dài, nên chất lượng sản phẩm không đảm bảo, chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật. Để giúp ngư dân khắc phục hạn chế này, chúng tôi đã nhiều lần khảo sát, nghiên cứu và phân tích thực tế hoạt động khai thác, bảo quản CNĐD của ngư dân ở xã Tam Quan Bắc; trên cơ sở đó, chế tạo thiết bị và công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm CNĐD phù hợp để chuyển giao cho ngư dân. Điều đáng mừng là qua thời gian chỉ dẫn, bà con ngư dân ở địa phương đã sử dụng khá thành thạo bộ thiết bị và công nghệ do chúng tôi chuyển giao. Chúng tôi tin rằng, bộ thiết bị và công nghệ câu CNĐD của chúng tôi sẽ phát huy hiệu quả tích cực. Chất lượng sản phẩm CNĐD đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, Công ty chúng tôi sẽ đón nhận ngay.
Ông Trần Văn Vinh - Phó Chi cục trưởng Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh, người trực tiếp hướng dẫn ngư dân lắp đặt và sử dụng bộ thiết bị và công nghệ câu CNĐD của Nhật - cho biết: Bộ thiết bị và công nghệ CNĐD của Nhật gồm có máy thu câu MSW-1DR 130 và máy tạo xung. Trong đó, máy thu câu (có các bộ phận chính gồm hộp điện điều khiển; thân máy; hộp số; tang thu câu; thanh định hướng) hoạt động ở chế độ thu và giữ dây câu, tự động xả dây khi lực kéo của cá cắn câu lớn và tự thu dây câu khi cá đã mệt. Khi cá yếu và có hướng dịch chuyển về tàu, ngư dân chỉ cần bấm nút trên hộp điều khiển để tăng nhanh tốc độ thu dây kéo cá đến gần tàu. Còn máy tạo xung (được tạo ra từ nguồn điện xoay chiều và được kích dòng có công suất đầu ra 1.500 W) có nhiệm vụ làm cho cá bị ngất không vùng vẫy khi đưa từ mặt nước lên boong tàu, nhằm giảm thiểu sự biến đổi chất lượng thịt cá trong quá trình khai thác. Khi cá dính câu, khoảng cách dây câu đến cá từ 20 -35 m, ngư dân tiến hành mở vòng xung điện đưa vào dây câu và thả vòng xung điện xuống nước theo dây câu đụng vào mỏm đầu của cá. Cá bị nguồn điện làm tê liệt, ngư dân ngắt nguồn điện và thu câu để đưa cá lên boong tàu xử lý.
Bài, ảnh: PHẠM TIẾN SỸ